Thursday, August 28, 2025

Vài dòng về Lực Lượng Đặc Biệt:

- VNCH có 4 vùng Chiến Thuật. Mỗi vùng có một Bộ Chỉ Huy C. Quân Khu 3 có Bộ Chỉ Huy C3 Lực Lượng Đặc Biệt.
- Bộ Chỉ Huy C3 Lực Lượng Đặc Biệt chỉ huy 3B. Mỗi B là một khu chiến thuật của Quân Khu. QKIII có 3 Khu Chiến Thuật 31, 32, và 33.
* B15 Lực Lượng Đặc Biệt, thuộc Khu Chiến Thuật 33, đóng tại Bình Long dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đặng Hưng Long.
* B16 Lực Lượng Đặc Biệt đóng tại Tây Ninh, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Tất Biên.
* B14 Lực Lượng Đặc Biệt đóng tại Phước Long, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Văn Công Báu, hay Lê Văn Hành (?).
- Mỗi B chỉ huy khoảng 10 toán A Lực Lượng Đặc Biệt. Mỗi toán phụ trách một trại biên phòng.
Các trại biên phòng tập trung dọc theo biên giới Nam VN từ Bến Hải đến Cà Mau, nơi đây tập trung vào việc tuyển mộ và huấn luyện Dân Sự Chiến Đấu (còn gọi là Biệt Kích Quân, Hoa Kỳ gọi là CIDG Civilian Irregular Defense Group) để phát giác và ngăn chận đường xâm nhập của CS vào lãnh thổ VN. Toán A162 đóng tại căn cứ Tống Lê Chân trực thuộc B16 LLDB đóng tại Tây Ninh, nhưng sự yểm trợ và liên lạc bị trở ngại vì quá xa nên giao cho B15 của Trung Tá Đặng Hưng Long trực tiếp chỉ huy.
Khoảng năm 1970, các trại biên phòng LLĐB chuyển cải thành BĐQ biên phòng, và vẫn giữ các nhiệm vụ như trên. Từ 1974, các tiểu đoàn biên phòng sát nhập vào các liên đoàn BĐQ, thay đổi khu vực hành quân theo vùng, không còn ở một vị trí cố định như trước. Từ đây, nhiệm vụ của các tiểu đoàn BĐQ hoàn toàn giống nhau.
Như đã nêu ở trên, các trại biên phòng trên toàn lãnh thổ miền Nam đều có nhiệm vụ phát giác và ngăn chận các đơn vị VC xâm nhập từ Campuchia, Lào vào lãnh thổ VNCH. Đối với trại Tống Lê Chân, trại còn có ý nghiã chiến lược quan trọng hơn. Do vị trí đặc biệt, nằm trong chiến khu C, gần khu Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Campuchia, là nơi đặt đại bản doanh của Cục R, trại còn là điểm ngăn chặn, hoặc phát giác CS xâm nhập vào Tây Ninh (gần sát Thủ Đô Saigon) qua Katum… Do đó, trại Tống Lê Chân luôn là cái gai trước mắt, VC cần loại bỏ với bất cứ giá nào.
Khi chuyển qua BĐQ, Tiểu Đoàn 92 BDQ có khoảng 350 quân nhân các cấp, đa số là người Miên, một phần người Thượng, và người Việt. Tiểu Đoàn có 4 đại đội. Các sĩ quan, hạ sĩ quan đa số từ LLĐB. Các cán bộ Dân Sự Chiến Đấu, quen khu vực quanh căn cứ và có kinh nghiệm chiến đấu cao, được mang cấp bậc Chuẩn Uý hoặc Thiếu Uý. Sau đó, họ sẽ được đi học khoá Sĩ Quan Hoàn Hảo tại Trường Thủ Đức để bổ túc kiến thức. Tiểu đoàn còn có một trung đội pháo binh 105 ly, có khả năng yểm trợ tới Xa Cam (cách An Lộc 10 km về phiá Nam). Khi mặt trận An Lộc bắt đầu, Sư Đoàn 25 BB đã đặt ở đây thêm 1 trung đội pháo binh 155 ly, đủ để yểm trợ mặt trận An Lộc khi cần. (Khi mặt trận An Lộc chấm đứt, Sư Đoàn 25 BB đã rút 2 khẩu 155ly khỏi căn cứ.)
Căn cứ nằm trên một ngọn đồi cao 50m trấn áp cả khu vực chung quanh, thuận lợi cho việc phòng thủ, bất lợi cho việc tấn công. Đường kính trung bình 400m, với các công sự đã được Công Binh Mỹ (US Sea Bee) xây cất. Phiá bên phải trước cửa là đầu nhánh sông Saigon. Trại giống như một ngôi sao nhiều cánh với 2 đại liên 50 bắn về 2 phiá tại mỗi đỉnh ngôi sao, không kể đến các súng liên thanh khác như đại liên 30 và 60. Các đại đội phòng thủ trong vòng rào ngoài ngăn cách căn cứ với chung quanh, với hệ thống giao thông hào và hầm hố kiên cố. Muốn vào hàng rào ngoài, địch phải vượt qua một bãi mìn dày đặc với hệ thống chiếu sáng báo động. Kế tiếp là khoảng trống đủ để các trực thăng đáp. Trong cùng là hàng rào ngăn cách Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Một phi trường cho C123 nằm ngay dưới cổng trại. (Tiểu Đoàn 92 BĐQ có một phương thức gài mìn đặc biệt phối hợp giữa cách gài bẫy của người Thượng và mìn Claymore. Khi chạm, mìn sẽ nổ liên hoàn nên sức công phá rất mạnh và hiệu quả. Trung tá Lê Văn Ngôn đã được mời về trường Võ Bị Đà Lạt, và khi đang theo học khoá Bộ Binh Cao Cấp tại trường Thủ Đức cũng được mời thuyết trình về cách gài bẫy hiệu quả này).
Đầu năm 1972, LĐ6 BĐQ do Trung Tá Trịnh Văn Bé làm liên đoàn trưởng và Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần Quốc Lịch làm lữ đoàn trưởng, hành quân quanh vùng và Campuchia. Trong thời gian này, bộ chỉ huy nhẹ của LĐ6 BĐQ đóng trong căn cứ. Khoảng tháng 4-72, một đại đội được lệnh tuần thám chung quanh (không cần đi xa vì hiện đã có 2 đại đơn vị quanh vùng) thì phát giác một đường mòn lớn hướng về phiá An Lộc, xe hơi có thể chạy qua. Đây là dấu hiệu báo cho biết các đơn vị công binh của CS đang chuẩn bị đường xá cho một cuộc chuyển quân lớn của chúng trong chiến dịch Đông Xuân sắp tới. Quân Khu đã cho máy bay L19 lên quan sát.
Hai đại đơn vị Nhảy Dù và BĐQ đã đột nhiên rút ra khỏi căn cứ, giao trách nhiệm toàn vùng cho TĐ 92 BĐQ, báo hiệu một chuyện thật lớn có thể xảy ra. Riêng LĐ6 BĐQ đã phải rút khẩn cấp theo đường bộ về theo ngả Tây Ninh, đến phi trường Trảng Lớn mới có máy bay chở đi Vùng I Chiến Thuật.
Đúng như tôi dự đoán, chiến dịch tấn công An Lộc của CS bắt đầu ngay ngày hôm sau. Trại TLC từ đó bắt đầu bị địch vây đánh kéo dài nhiều ngày, mở đầu bằng các đợt pháo kích bằng 82 ly, 107 ly vào căn cứ liên tục ngày đêm. Vào những ngày cao điểm, căn cứ hứng chịu mỗi ngày từ 100, đến 200 quả đạn. Kế tiếp sau vài ngày, bộ binh địch áp sát, tấn công ban ngày, bò vào ban đêm, cắt đứt đường bộ, chặn tiếp tế, tiếp viện. Chúng còn dùng 12.7 ly phòng không và cả hoả tiễn tầm nhiệt để bắn máy bay đang yểm trợ hay tiếp tế cho căn cứ. Ở đây, các đơn vị bộ binh của địch dùng 2 cách để tấn công căn cứ:
1. “Tiền pháo hậu xung”: pháo kích tối đa vào căn cứ, rồi cho bộ binh tấn công, trong khi pháo binh tiếp tục bắn lên phiá trước mở đường. Khi xung phong, địch có thể dùng chiến thuật biển người, lấy lợi thế về quân số để áp đảo quân ta.
2. “Hoa nở trong lòng địch”: Cho đặc công bò vào căn cứ rồi bung ra các phía như cánh hoa nở (Tôi đã qua một khoá huấn luyện do binh chủng BĐQ tổ chức về chiến thuật của VC).
Gặp sức kháng cự của tiểu đoàn và sự yểm trợ hữu hiệu của phi cơ và pháo binh từ các căn cứ khác, địch đã bị chặn lại hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác. Tuy nhiên, Tiểu Đoàn không tránh khỏi thiệt hại. Các binh sĩ lần lượt bị thương và tổn thất nhân mạng mỗi ngày một cao. Nhiều công sự phòng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại không còn xử dụng được. Khi pháo binh của căn cứ bắn yểm trợ An Lộc, thì VC tập trung pháo kích vào vị trí pháo binh của ta. Chỉ sau vài ngày, các khẩu đại bác bị hư hỏng nên không còn dùng được nữa. Với lưới đạn dày đặc đan kín bầu trời, việc tiếp tế và việc tải thương bằng máy bay càng trở nên khó khăn khi áp lực địch gia tăng mỗi ngày. Nhưng đơn vị vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật và tinh thần binh sĩ vẫn cao. Áp lực địch giảm đôi chút khi VC bị thất bại tại An Lộc, tuy nhiên chúng vẫn duy trì pháo kích và phòng không.
Trong một lần hành quân chung quanh căn cứ, một toán tiền đồn của TĐ92 BĐQ đã phục kích giết chết 1 tên đeo sắc cốt và 2 tên cận vệ. Trong đêm, một đơn vị VC đã trở lại cướp xác nhưng bị ta đánh trả dữ dội nên không thành công. Đơn vị tiền đồn đã tịch thu được một túi tài liệu và một khẩu súng K59, vốn được trang bị cho các sĩ quan tham mưu cao cấp của chúng. Quân đoàn 3, sau khi nghiên cứu tài liệu, đã xác nhận đó là đại tá VC với bí danh Nguyên Hương, Cục Phó Cục R, đặc trách về chính trị. Y đang nghiên cứu về sự thất bại của VC tại An Lộc. Tại sao chiến thuật “Nhị thức bộ binh - Thiết giáp của VC lại thất bại?” Bản đánh giá nói là việc kết hợp không đồng bộ: Lúc có thiết giáp thì không có bộ binh, và ngược lại. (Đây chỉ là một lý do để biện minh cho sự yếu kém của chúng. Chúng quên mất chính tinh thần chiến đấu của lực lượng phòng thủ và dân chúng sống tại An Lộc mới là yếu tố chính làm chúng thất bại!).
Mặt trận lại đột nhiên trở nặng. Sau khi chiến dịch tấn công An Lộc chấm dứt, mặc dù bị tổn thất nặng, chúng cũng đã rảnh tay nên xiết chặt vòng vây, liên tục pháo kích, tấn công, đặc công. Trại TLC, không thể được tiếp cứu vì Quân Đoàn không còn đơn vị trừ bị, không thể liên lạc với bên ngoài bằng đường bộ vì VC dày đặc vây kín căn cứ, giờ đây đã trở thành một tiền đồn cô đơn nằm giữa vùng đất địch, ngược lại cũng đã trở thành vết nhọt trong vùng đất chúng chiếm đóng. Tiểu đoàn nhận tiếp viện đạn được, súng ống, lương thực, thuốc men… hoàn toàn bằng trực thăng và C130. Tuy nhiên vì hoả lực phòng không của VC đan chặt trên bầu trời, trực thăng trở thành mục tiêu dễ bị bắn hạ, nên chỉ còn chờ C130 tiếp tế từ trên cao, do Căn Cứ 90 Tiếp Tế Thả Dù tại Phú Thọ, Saigon đảm trách. Cách thả dù cổ điển đã không chính xác vì trung bình 10 kiện hàng thì chỉ có 2, 3 kiện lọt vào căn cứ, còn lại thì bay ra ngoài vào vùng đất địch. Sau khi học được kỹ thuật đặc biệt là khi tới một cao độ nhất định, ngòi nổ gắn theo dù được kích hoả nổ để các kiện hàng rơi vào trong căn cứ, thì việc tiếp tế có hiệu quả hơn. Các phi công chỉ cần tính toán sức gió và hướng gió là có thể thả từ trên cao mà không sợ bay ra ngoài trại.
Tôi cũng cần nói thêm, một quân nhân tên Bằng, vốn thuộc LLĐB trước đây, sau khi chuyển qua BĐQ, đã được đi học và trở thành một phi công trực thăng. Anh đã tình nguyện 3 lần bay vào căn cứ. Đây là một sự tình nguyện đáng ghi ơn vì nhờ thế căn cứ đã có khá đủ tiếp liệu. Sự can đảm tuyệt vời của anh khiến tôi luôn khâm phục, vì mỗi lần vào được căn cứ, vượt qua lưới đạn phòng không dày đặc của địch, rồi trở ra là một lần đối diện với cái chết. Khi vào tới căn cứ, trực thăng phải áp dụng kỹ thuật xuống đặc biệt để tránh bị VC pháo kích. Họ phải bay thật nhanh thẳng tới căn cứ, rồi từ trên cao tắt máy cho rơi tự do, khi gần tới đất thì mở máy ngay để đáp xuống. Có thấy các máy bay trực thăng đáp xuống căn cứ mới thấy lòng can đảm và tài lái điêu luyện đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của các phi công.
VC pháo kích ngày nhiều ngày ít, nhưng sự tổn thất của tiểu đoàn tuỳ thuộc vào độ chính xác của pháo binh địch. Do tiếp tế giảm, điều kiện sống hàng ngày của toàn Tiểu Đoàn xuống thấp. Ăn uống thiếu thốn, điều kiên vệ sinh kém, khiến càng có nhiều bệnh binh bị suy nhược, sốt rét. Tinh thần binh sĩ các cấp đã bị kéo dãn căng, thể xác bị mệt mỏi đến cực độ nên tinh thần giảm sút. Nhưng Tiểu Đoàn vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật. Vì thế sức chiến đấu nhìn chung không giảm. Số thương bệnh binh không thể tải thương ngày một tăng, vì số lần tải thương bằng trực thăng ngày càng giảm. Sau một lần bổ xung quân số, một trực thăng Chinook bị bắn rơi khiến một số quân nhân bi chết cùng với viên sĩ quan truyền tin lên thay thế. (Trung Uý Đỗ Đức Hoạt Phú Quý, khoá 6/69 Thủ Đức, sau 3 ngày kết hôn đã bỏ ngày phép tình nguyện theo trực thăng lên căn cứ.) Viên phi công tên Toàn đã được một trực thăng khác “bốc” khỏi căn cứ. Sau gần một năm rưỡi, lại một trực thăng khác rơi trong căn cứ. Phi hành đoàn được cứu thoát nhưng bị kẹt lại vì không thể đưa ra khỏi căn cứ.
Để tưởng thưởng cho chiến công của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ, cũng như khích lệ tinh thần, tất cả quân nhân các cấp đã được thăng một cấp, sau gần 1 năm bị vây hãm (1973). Tất cả các SQ được tưởng thưởng Bảo Quốc Huân Chương, hoặc Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, các binh sĩ, hạ sĩ quan được tưỏng thưởng ngôi sao đồng và bạc. Tiểu Đoàn được phong tặng Bảo Quốc Huân Chương, quân kỳ Tiểu Đoàn được mang dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương (màu đỏ). Các “lon” và huy chương đã được thả từ trực thăng xuống mặt trận, thay vì trao tặng tại chỗ.
Vào khoảng đầu năm 74, một lần nữa toàn bộ Tiểu Đoàn lại được thăng cấp lần thứ hai vì sự chiến đấu quả cảm, và sự hy sinh trong gian khổ trong một trận chiến quá dài ngày. Khoảng tháng 4-73, phái đoàn ICCS (bốn bên) bay vòng quanh căn cứ để quan sát. Vì có sự hiện diện của phái đoàn này nên VC không dám bắn và pháo kích vào trại. Các phi công VN bay cho phái đoàn ICCS đã đánh lạc hướng VC bằng cách bay thật thấp về hướng Sóc Con Trăng. Trong khi đó, các phi cơ trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân bay thật sát ngọn cây, để ICCS không thấy, vào TLC tiếp tế và tải thương. Đây là chuyến tải thương được nhiều thương binh nhất trong suốt thời gian trại bị vây hãm.
Tôi đã được lệnh TĐT theo trực thăng rời trại với 3 nhiệm vụ, được cho là rất quan trọng:
1. Là gạch nối an ủi, trấn an thân nhân, gia đình binh sĩ. Ngoài ra, tôi còn phải hàng ngày thông báo về tình trạng thân nhân của họ đang chiến đấu tại căn cứ TLC cho gia đình của họ. (Mỗi khi tôi đứng trước nhà là họ oà lên khóc vì biết hung tin đã tới, khiến tôi không thể nói nên lời. Thật đau lòng khôn tả!)
2. Liên lạc với Bộ Chỉ Huy Quân Khu 3 BĐQ, phụ trách việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn.
3. Đặc biệt giải quyết lương bổng cho gia đình binh sĩ các cấp.
Lúc đó, tình trạng gia đình binh sĩ ở Trại Phan Hạnh, Biên Hoà đang bị rối loạn. Sở dĩ có tình trạng này, vì vợ con của các quân nhân đang tham chiến tại Tống Lê Chân đã kiệt quệ về tinh thần, và túng thiếu về vật chất (không có lương do chồng gửi về). Họ đang tuyệt vọng chờ chồng, cha của họ đã bị kẹt tại mặt trận quá lâu. QK3 đã yêu cầu TĐ đưa một SQ kỳ cựu về để trực tiếp giải quyết với vợ con của các binh sĩ, vì đa số vợ con họ, người Thượng và Miên, không có thói quen giữ giấy tờ để chứng minh liên hệ của họ với chồng, cha. Do đó, việc xác định là vợ, con chỉ căn cứ vào sự nhận biết của những người quen cùng đơn vị. Trong tất cả SQ của Tiểu Đoàn, chỉ có tôi có thể giải quyết tình trạng lương bổng cho vợ con binh sĩ và lo việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn hiệu quả. (Khi bình yên, vợ con các binh sĩ, nhất là người Thượng ở trong trại cùng chồng. Tôi đã ở từ ngày đầu nên biết hầu hết thân nhân sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ vì gặp nhau hàng ngày và thường nói chuyện với nhau. Vợ con binh sĩ đã được đưa về trại Phan Hạnh khi cuộc chiến trở nên khốc liệt.)
Sau khi về tới hậu cứ, tôi thường xuyên theo C130 thả dù tiếp tế và nhận lệnh trực tiếp từ TĐT (qua vô tuyến) uỷ quyền thay binh sĩ đang chiến đấu, cho gia đình họ được lĩnh lương đúng kỳ. Theo đúng nguyên tắc, một binh sĩ muốn nhờ hậu cứ trao lương cho vợ con của họ thì phải có chữ ký của binh sĩ đó. Tôi đã ghi nhận và báo về Đại Đội Công Vụ của QK3 và giải quyết lương bổng theo yêu cầu của TĐT. Trong những lần theo C130 về ban đêm, tôi đã nhìn thấy lưới đạn phòng không của địch (với những đường đạn sáng) đan kín chung quanh, và thỉnh thoảng các hoả tiễn tầm nhiệt hướng về máy bay, nổ chói loà trong đêm đen của núi rừng biên giới. Tuy nhiên, máy bay đã bắn các trái sáng có nhiệt độ cao nên các hoả tiễn này không thể tới gần máy bay của họ.
11/4/74 - Sau 510 ngày Tiểu Đoàn bị vây hãm, Trung tá Lê Văn Ngôn ra lệnh tôi phải bay từ Biên Hoà tới An Lộc ngay, phải mở truyền tin 24/24. Khi đang ở trong An Lộc thì Trung tá Ngôn đã gọi cho tôi: (Để đơn giản, tôi dùng bạch văn để trình bày cùng các độc giả):
- Trại đang bị tấn công rất nặng. Anh hãy báo ngay cho Đại tá Chuẩn.
Sau đó, tôi nghe nhiều tiếng nổ dữ dội từ hướng trại TLC vì chỉ cách có 15km theo đường chim bay. Tôi lại nghe tiếng Trung Tá Ngôn từ máy vô tuyến:
- Kho đạn đã bị nổ và trại bị tràn ngập.
Và lời nói cuối cùng:
- Tôi đã ra lệnh rút quân.
Vô tuyến bị cắt, không một tin tức gì được ghi nhận thêm từ đó. Tôi đã báo cáo với Thiếu Tá Thuận, Trưởng Phòng 3 QK3 BĐQ. Tại đây, họ cũng cố gắng liên lạc với TĐ nhưng không kết quả. Cũng cần nói thêm, trong thời gian này, VC đã chiếm được một số máy vô tuyến của ta và đã cho bộ phận tình báo của chúng theo dõi và bẻ khoá. Do đó, mọi chuyện liên lạc qua PRC25 đều bị chúng nghe lén và tìm cách đối phó. Với tình thề sống còn của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ thì việc “im lặng vô tuyến” là điều cần thiết và dễ hiểu. Sáng hôm sau, Đại Tá Chuẩn đã phái L19 bao vùng, tìm kiếm và theo dõi nhưng rất tiếc không có dấu hiệu của TĐ92 BĐQ.
Ngày 12/4/74 - L19 tiếp tục bao vùng, kể cả khu vực chung quanh An Lộc nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của Tiểu Đoàn. Khi bay ngang Trại TLC, viên phi công thấy phía dưới khói mịt mù (có lẽ vì kho đạn nổ và đám cháy chưa dứt). Đến gần trưa, đột nhiên tiếng Trung Tá Ngôn vang lên trên máy truyền tin muốn nói chuyện với Đại Tá Chuẩn. Tr/Tá Ngôn xin Đại Tá Chuẩn cho lực lượng tiếp viện trong khi Tiểu Đoàn cố gắng phá chốt để vào An Lộc.
Chỉ một thời gian ngắn sau đó, VC đã bắt được tần số sóng truyền tin của ta. Tôi không chắc chúng biết được nội dung cuộc điện đàm vì đã được mã hoá, cũng như việc bẻ khoá đòi hỏi thời gian. Nhưng VC đã báo động và ra lệnh toàn bộ lực lượng của chúng quanh An Lộc đồng loạt tấn công các đơn vị của ta bằng bộ binh và pháo kích đồng loạt nhằm ngăn chặn tiếp cứu, đồng thời cho các đơn vị của chúng tìm kiếm Tiểu Đoàn 92 BDQ đang ở đâu đó quanh An Lộc, để chuyển quân tấn công. Ngược lại, các đơn vị của ta cũng đồng loạt mở các cuộc tấn công về phiá địch nhằm làm giảm áp lực lên Tiếu Đoàn 92, mặc dù các đơn vị phòng thủ An Lộc không rảnh tay để tổ chức tiếp cứu. Để ứng phó với tình hình, các phi đoàn trực thăng và phản lực thuộc Quân Đoàn III đã lên vùng yểm trợ.
Ở bên ngoài, Tiểu Đoàn vừa phải chống trả sức tiến công điên cuồng, vừa phải phá các chốt ngăn chặn của VC. Lại có thêm thương binh và binh sĩ tử trận. Đổi lại bọn VC cũng phải chịu tổn thất cho hành động của chúng. Trung Tá Ngôn đã yêu cầu Thiếu tá Phước, Tiểu Đoàn Phó, cùng một đại đội đi đầu “nhổ” các chốt trên đường đi, trong khi ra lệnh cho các đại đội khác vừa đánh vừa rút.
Khoảng 3 giờ chiều, tôi được Đại Tá Chuẩn gọi và yêu cầu báo cho TĐ biết là “phải vào vị trí an toàn trước 4 giờ”, vì trời sẽ mau tối, nhiều sương mù nên Không Quân không còn yểm trợ hữu hiệu. Tôi đã ngồi trên CNC theo dõi cuộc rút quân. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy Trung Tá Ngôn, ngồi giữa một hố B52, chung quanh có khoảng chục binh sĩ đứng bao quanh, và các binh sĩ bị thương nằm la liệt khắp nơi. Ông đang cho trải pano, đánh dấu vị trí bạn, để điều chỉnh trực thăng đánh về phiá VC. Khi tôi dùng máy truyền đạt lệnh của Đại Tá Chuẩn, Trung Tá Ngôn đã ra lệnh cho tôi:
- Hãy về nói với “ông già”, chừng nào tôi mang được “đứa con” cuối đang bị “kiến cắn” vào thì tôi mới vào.
Tôi đã bật khóc và nói với ông:
- 90 cố gắng vào vì yểm trợ của Không Quân sẽ không còn hữu hiệu.
Thật may mắn, các trực thăng thuộc Sư Đoàn 3 KQ đang bay phiá trên, đã nghe được cuộc điện đàm nên tất cả bay vào tấn công địch không cần chờ lệnh, bằng mọi cách giải toả cho Tiểu Đoàn. Trực thăng xuống đổ xăng rồi bay lên tiếp, như châu chấu trên trời, và bắn yểm trợ tối đa, bất kể lưới đạn phòng không của VC. Cuối cùng, nhờ lòng can đảm của các người bạn ngoài quân chủng (Trong đó có một phi công là bạn cùng khoá 21 Võ Bị Dalat với Trung Tá Ngôn, Thiếu Tá Trần Gia Bảo), nhờ tác xạ hiệu quả của các trực thăng, cuối cùng tiểu đoàn đã vượt qua những chướng ngại sau cùng. Đại đội đi đầu đã nhổ được các chốt ngăn chặn, mở đường cho các đại đội kế tiếp tuần tự vào theo. (Cũng tiện đây, thay mặt các sĩ quan thuộc TĐ92 BĐQ, còn 5 người hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ, các quân nhân của Tiểu Đoàn 92 BDQ, tôi gửi lời chân thành ghi ơn đến các phi hành đoàn vận tải C123, C130, các phi đoàn phản lực thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất, và các phi đoàn trực thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hoà, về các phi vụ mà cách anh đã tiếp tế, yểm trợ, tải thương cho TĐ92 BĐQ trong thời gian bị vây hãm và rút lui.)
Cuối cùng, Tiểu đoàn 92 BĐQ đã về đến điểm an toàn. Trong cuộc rút quân này, Tiểu Đoàn đã đưa được toàn bộ đơn vị khoảng trên 250 người, hầu hết thương binh, kể cả phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi tại Tống Lê Chân nhưng trực thăng tiếp cứu không thể xuống, trừ 2 người phải bỏ lại dọc đường vì đã chết. (Phi công và phụ tá tên Phối và Mỹ, và 2 xạ thủ đã cùng Tiểu Đoàn theo đường bộ rút lui.)
Sau đó, tôi đã dìu Trung Tá Ngôn, gần như kiệt sức, vào trình diện Đại Tá Chuẩn. Tại đây, Trung Tá Ngôn nghiêm chào rồi nói:
- Thưa Đại Tá, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.
Đại Tá Chuẩn đã dõng dạc, nhưng nhỏ nhẹ, trả lời:
- Không, tôi là Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Khu 3 kiêm Tư Lệnh Mặt Trận An Lộc, cấp bậc cao cấp nhất tại đây, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.
Một thời gian sau đó khi có thời gian, Tr/Tá Ngôn mới kể thêm cho tôi biết thêm về cuộc vây hãm của VC, và cuộc rút quân của Tiểu Đoàn 92 BĐQ:
Căn cứ đã bị Sư Đoàn Công Trường 9 VC vây hãm, trong đó Trung Đoàn 271 (VC đã dùng nhiều danh xưng với mục đích ngụy trang. Nhiều đơn vị đã dùng 2, 3 tên khác nhau nhưng thực sự chỉ là một) và một trung đoàn pháo binh của VC trực tiếp tham chiến. Trung đoàn pháo binh này được trang bị các loại súng cối 82 ly, 107 ly… và các loại hoả tiễn 24 nòng, và các hoả tiễn tầm nhiệt. Loại hoả tiễn này bắn hàng loạt, có sức công phá rất lớn đối với sinh vật đứng trên mặt đất, tuy nhiên không chính xác nên thỉnh thoảng chúng mới dùng. Ngoài ra chúng còn điều động một tiểu đoàn pháo binh 130 ly bắn trực tiếp vào căn cứ.
Với hoả lực và quân số áp đảo khi so sánh với Tiểu Đoàn 92 BĐQ, VC đã nhiều lần tung các đợt tấn công nhằm xoá bỏ sự hiện diện của quân ta trong vùng do chúng chiếm đóng. Khoảng cuối tháng 3/74, sau khi pháo kích dữ dội bằng súng cối 82 ly và hoả tiễn 107 ly, địch đã cho bộ binh xung phong, định đè bẹp căn cứ. Nhưng, các đại đội đã đẩy lui địch nhờ căn cứ có hầm hố kiên cố dù đã bị hư hại nhiều.
Ngày 5 tháng 4, bộ binh địch sau một đợt pháo kích dữ dội đã được xe tăng T54 yểm trợ tấn công trại, nhưng nhờ điạ thế trại ở trên cao xe tăng không thể lên tấn công nên chúng đã thất bại.
Ngày 11-4-74, sau khi kho đạn bị nổ vì địch pháo kích trúng, Trung Tá Ngôn biết Tiểu Đoàn không còn đủ khả năng giữ căn cứ nên ra lệnh rút lui. Trước đây, đề phòng trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, là một sĩ quan giàu kinh nghiệm, ông đã nghiên cứu đường rút quân và phân công các đại đội những việc phải thi hành khi có lệnh rút lui. Ông đã ra lệnh phá huỷ các khẩu đại bác 105 ly, các khầu súng liên thanh lớn, các máy Truyền Tin dư thừa, và cả mìn và đạn chưa bị hư hại. Ngoài ra, các đại đội còn được phân công mang theo toàn bộ thương bệnh binh.
Việc rút quân bất ngờ của TĐ chắc chắn gây bối rối cho VC quanh căn cứ, vì một đơn vị lớn như Tiểu Đoàn 92 BDQ, không có phương tiện vượt sông, không thể băng được qua đầu sông Saigon vào mùa mưa, nước lớn mà không bị khám phá. Đối với người quen thuộc điạ thế, con đường duy nhất là mở đường máu xuống cửa trại, băng qua cầu và đi thẳng về An Lộc. Vì nghĩ như thế, chắc chắn VC đã bố trí các lực lượng ngăn chặn một khi TĐ rút quân theo hướng này. Đoán được suy nghĩ của chúng, Tiểu đoàn đã rút theo hướng ngược lại mà VC không ngờ. Đó là đi sâu vào vùng đất địch. Họ từ đỉnh đồi băng ra sau căn cứ, vượt suối đang mùa nước lớn, đi ngược về hướng Minh Thạnh cách hơn 40km. Để đưa được nguyên Tiểu đoàn băng qua suối, Tr/Tá Ngôn nhờ những người lính Thượng trước đây thường đi bắt cá, biết được nơi có đá ngầm, căng dây cho những người không biết bơi, và các thương binh đi qua.
Ông nói:
- Minh Thạnh thuộc Chiến Khu C, vì VC mang quân vây mình nên nơi đây sẽ không có chủ lực quân của nó. Cùng lắm chỉ có đám hậu cần và thương binh của chúng mà thôi.
Bình Long toàn rừng le, cây phủ trên đầu, Tiểu Đoàn phải len lỏi, đôi khi phải bò theo những khoảng trống dưới tàn tre. Núi rừng hiểm trở như thế, TĐ còn tắt máy truyền tin vì sợ VC tìm ra điểm đứng, nên máy bay L19 không thể tìm được tung tích, dù đôi lúc L19 bay trên đầu Tiểu Đoàn. Như một phép lạ đối với ta và địch, Tiểu Đoàn 92 BDQ đã biến mất khỏi vùng hành quân. Khi tới Minh Thạnh, TĐ đi ngược lại theo QL 13 rồi quay vòng về An Lộc, tới Xa Cam, Xa Cát.
(Trước khi về Tống Lê Chân, Trung Tá Ngôn đã ở trại Chí Linh của LLĐB, cũng như Đại Uý Phan Trí Viễn đã ở trại Minh Thạnh nên rất rành khu vực này.) Khi gần tới nơi, Tr/Tá Ngôn mới quyết định mở máy liên lạc để giữ bí mật tuyệt đối. Đi sâu vào lòng địch, các binh sĩ của cả tiểu đoàn hành quân trong điều kiện tuyệt đối khó khăn, không thể tiếp viện, không thể kêu cứu, trong khi còn phải cáng hoặc dìu theo thương binh. Tiểu Đoàn đã phải trải qua cuộc hành quân vô cùng nguy hiểm, vì chỉ một sai lầm nhỏ khiến VC khám phá ra vị trí, thì cả Tiểu Đoàn phải gánh chịu hậu quả khôn lường.
*****
Hôm nay sau hơn 40 năm, những hình ảnh bi thảm, nhưng kiêu hùng của các binh sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn linh động hiện ra trước mắt, trong ánh sáng nhạt nhoà của ký ức. Khi tuần tự vào được bên trong khu vực An Lộc, họ gần như đã kiệt quệ, gầy ốm vì thiếu ăn lâu ngày; da xạm đen, bệnh hoạn vì thiếu hụt thuốc men; quần áo tả tơi rách nát vì thiếu quân phục thay thế; bẩn thỉu do đất bùn vì phải lặn lội trong rừng sâu và phải chiến đấu liên tục để giành sự sống. Một số phải dìu đi. Nhưng qua nét mặt của họ hiện lên vẻ nhẫn nại chịu đựng phi thường, trong khi đầu họ vẫn ngửng cao phảng phất nét hãnh diện vì đã làm được chuyện thần kỳ cua QLVNCH,
Các thương binh còn tệ hại hơn, vì có môt số phải nằm trên cáng. Một số không còn đủ sức để trả lời. Tôi không hề nghe tiếng rên xiết, trách cứ về số phận kém may mắn của mình. Mặc dù đã có hơn 250 binh sĩ trở về, trong đó có 4 người của phi hành đoàn trực thăng (gồm 1 phi công, 1 phụ tá, và 2 xạ thủ), nhưng quân số có khả năng tham chiến thực sự chỉ còn khoảng 150 người.
Lúc đó, tôi đứng im lặng nhìn họ, lòng đầy cảm xúc không nói nên lời. Tôi cảm thấy hãnh diện vì đã là một phần của họ. Vượt lên sự sợ hãi, đối diện với cái chết, họ đã chiến đấu chống kẻ thù không mệt mỏi trên 510 ngày trong thiếu thốn, đói khát, bệnh tật. Vượt trên sự yếm kém về quân số, trang bị và hoả lực, họ đã giáng cho VC những tổn thất nặng nề dù chúng mạnh hơn nhiều lần, quân số đông hơn nhiều lần, trang bị tận răng.
Điều gì khiến họ làm được? Đó chính là tinh thần kỷ luật và sự tin tưởng đối với cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy của họ đã giữ lời hứa là chiến đấu và mang họ về đến điểm an toàn. Họ làm được như vậy là vì chế độ nhân bản của Miền Nam hơn hẳn chế độ phi nhân của CS Việt Nam, hoặc của chế độ tàn bạo CS Nga, Tàu.
Hôm nay, sau hơn 40 năm, hình ảnh của 2 cấp chỉ huy đứng đối diện nhau, trong giá buốt của núi rừng, và bóng tối của thị trấn An Lộc vẫn ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời. Tôi vẫn cảm thấy bồi hồi và xúc động khi nhớ như in lời đối đáp của Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn và Trung Tá Lê văn Ngôn (giờ đây cả hai ông đã không còn nữa): “Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.”
Câu trên được nói 2 lần liên tiếp qua 2 cấp chỉ huy khác nhau. Tại sao họ phải làm như vậy? Bởi vì họ ý thức được rằng, họ là người đầu tiên nhận vinh quang, khi đơn vị mang thắng lợi về, thì họ cũng phải là người dám can đảm nhận trách nhiệm về những tổn thất của đơn vị. Vì đó là danh dự, là phẩm chất không thể thiếu của một cấp chỉ huy. Thật may mắn, chúng ta đã có nhiều người như họ, dám nhận trách nhiệm về mình bất kể hậu quả.
Sau 30/4/75 - Chiụ chung số phận của dân chúng Miền Nam, giống như trăm ngàn người của chế độ cũ, Trung Tá Ngôn đã bị đưa đi tù “cải tạo” tại miền Bắc. Bị bạc đãi, hành hạ tinh thần, ông vẫn bình tĩnh giữ đúng tư cách của một quân nhân dù đã bị bại trận, vẫn duy trì được niềm tin vào chính nghiã. Nhưng ông đã không chống chọi nổi với cơn bệnh hiểm nghèo trong điều kiện khốn cùng, thiếu thốn thuốc men và dinh dưỡng. Cuối cùng, ông đã lặng lẽ giã từ cõi đời.
\
Những người bạn đưa ông xuống huyệt mộ với một tấm chiếu rách trong câm nín, là những người bạn tù đáng thương đang chịu nạn như ông, những người đã là từng chiến đấu, từng cùng nhau chống kẻ thù chung là CS Việt Nam.
Kể từ ngày VC chiếm Miền Nam, chúng ta không hề nghe CSVN nhắc đến, hay tổ chức ăn mừng “Trận Đánh Tống Lê Chân”. Phải chăng, lực lượng VC tấn công đã bị thiệt hại rất nặng nề trước một lực lượng phòng thủ nhỏ bé, bị cô lập với thế giới bên ngoài? Phải chăng chiến dịch đánh chiếm của chúng bị kéo dài quá lâu vì sợi “gân gà” khó nuốt? Câu trả lời đúng nhất là chúng muốn quên đi nỗi nhục nhã đã để nguyên một tiểu đoàn BĐQ biến mất khỏi vòng vây kiên cố của chúng với sự tổn thất không đáng kể, như đã “bốc hơi”.
30 tháng 4 năm nay lại về, một thoáng nhớ về kỷ niệm xưa, kẻ còn người mất, tôi muốn được im lặng tưởng nhớ đến Trung Tá Ngôn và những người lính của TĐ92 BĐQ năm xưa, kém may mắn đã hy sinh tại trại Tống Lê Chân và trên đường rút lui. Cho tôi được nghiêng mình trước sự hy sinh cao cả ấy. Các anh đã là những vị anh hùng vì chỉ có các anh mới làm được chuyện đội đá vá trời. Nghĩ đến các anh, tôi không quên nghĩ đến nỗi đau khổ mà vợ con các anh phải gánh chịu. Xin cho tôi được nghiêng mình chia sẻ nỗi bất hạnh tột cùng với vợ con các anh vì đã mất người thân yêu.
Giống như các liệt sĩ vô danh khác của QLVNCH, sự hy sinh của các anh sẽ được muôn đời nhắc đến!
Mũ Nâu Đặng Hưng Vượng

Tiếc Thương. CHÀO TAY MŨ ĐỎ - Th/Tá Trần Công Hạnh TĐT/TD92 ND KBC 4227

Út Bạch Lan
Tiếc Thương.
CHÀO TAY MŨ ĐỎ
Nghe hung tin lòng rung lên cảm xúc
Một cánh dù vừa lạc hướng bay
Đất lương sơn một ghế ngồi trống chỗ
Đệ huynh còn sao người nỡ đi xa
Những cuộc rượu bên trời một lứa
Những bi ai dốc cạn hồ trường
Những ngựa hồ còn mơ gió bắc
Từ nay chiếu rượu vắng hương nồng
Người hào sảng như Lương Sơn thủy bạc
Muốn chống gươm hành đạo thế thiên
Chỉ tiếc là bàn cờ chiến quốc
Lại trong tay những kẻ vô lương
Thân chốt thí sang sông tức tưởi
Chưa đánh phải hàng hận man man
Đất tạm dung tha hương gặp lại
Là đệ huynh chan chứa tình đầy
Vẫn cứ ngỡ
Tương lai còn rạng rỡ
Sẽ có ngày quang phục quê hương
Mộng chưa thành vẫn mơ về bến cũ
Tắm lại sông xưa một thuở thanh bình
Hỡi ơi!
Sao đi không biệt
Từ nay vắng bóng huynh rồi
Con ngựa chiến thành Troy bất tử
Tiểu đoàn hai mũ đỏ lừng danh
Người đã sống một đời lính trận
Đã tự nguyền da ngựa bọc thây
Đã đi qua những đoạn đường chinh chiến
Khói lửa tràn lan đất nước mù
Trong chiến trận bao lần chia lửa
Là bao lần chiến thắng đối phương
Gót giày saut lấm lem bùn đất
Nhưng không lấm cánh dù
Giữa trời đất mênh mông.
Anh em xa hay gần vẫn biết
Trần gian này biến ảo khôn lường
Công không tính bạc vàng không chuộng
Hạnh đức mới là mối nghiệp duyên
Anh đã sống trọn đời tâm huyết
Với anh em chiến hữu trước sau
Vẫn như một “không hai đâu nhé”
Anh đã cười cười nói thế nhớ không.
Trời chưa Thu mà lá vàng đã rụng
Cho hoa dù nương gió rơi theo
Chiếc ghế trống đồi Lương Sơn còn đó
Chỉ thiếu anh TRẦN CÔNG HẠNH vẹn toàn.
Ở rất xa, xa nơi anh nằm xuống
Chào tay này kính tiễn một quân nhân
Về với cõi vô cùng không ai biết
Sẽ vô ưu thanh thản với vĩnh hằng.
Bến cũ Túy Lúy 
Houston Ngày 12 Tháng 7 Năm 2021
FB Đặng M Tâm

Tuesday, August 26, 2025

CHUYỆN SUY NGẪM

Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra trong thế chiến thứ hai, một câu chuyện đầy tình người, đáng cho chúng ta đọc và suy ngẫm.


Trung uý Charlie Brown 21 tuổi, trưởng phi cơ chiếc B17F Flying Fortress, tên phi cơ Ye Olde Pub, thuộc phi đoàn 527th United States Army Air Force (USAA) đồn trú tại Kimbolton England. Ngày 20 tháng 12 năm 1943. Trung uý Charlie Brown cất cánh từ Kimbolton cùng phi hành đoàn 10 người, trong một phi vụ đánh bom khu kỹ nghệ gần thành phố Bremen Đức Quốc, thành phố được bảo vệ dầy đặc phòng không và 250 chiến đấu cơ gồm Bf 109, Fw 190 và GJ 11.

 

Trên vòm trời Bremen chiếc B17 của Charlie Brown bį phòng không của Đức bắn gần gãy lìa đuôi, mũi phi cơ bị hư hại nặng, phi cụ không còn hoạt động, điện, thủy điều hoàn toàn hư hỏng. Ba trong bốn động cơ không còn hoạt động được. Sau đó chiếc B17 bị các chiến đấu cơ Đức vây quanh, bắn nát như tổ ong, chiếc phi cơ B17 mất cao độ chúi xuống, trong lúc hỗn loạn không còn phi cụ, phi cơ lạc hướng bay sâu vào nội địa nước Đức. Trung uý Charlie Brown hồi tưởng: Phi cơ trong tình trạng tuyệt vọng nhưng anh không thể ra lệnh cho phi hành đoàn nhảy dù được, vì trên tàu còn 4 phi hành đoàn bị thương, một rất nặng, nên anh quyết định bay tiếp cho đến khi nào không còn bay được, anh sẽ ép buộc đáp, và tất cả phải chịu chung số phận với con tàu.


Anh Franz Stigler, người phi công lái chiếc Bf 109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức Quốc) từng hạ 27 phi cơ của đồng minh, đang tiếp tế nhiên liệu, nạp đạn cho phi cơ dưới đất, được lệnh cất cánh khẩn cấp, bắn hạ chiếc B17, đang lảo đảo bay trong không gian vô định.


Trung uý Charlie hồi tưởng: tôi phải vất vả lắm mới kéo được con tàu trở lại bình phi, thì lù lù bên trái của tôi một chiếc Bf109 của Đức kèm sát cánh. Trong giây phút kinh hoàng, tôi nhắm mắt lại, hy vọng đây chỉ là giấc mơ. Khi mở mắt ra chiếc Bf109 vẫn còn đó, và người phi công ra lệnh cho tôi phải đáp ép buộc xuống phi trường Đức, hay phi trường nước trung lập Sweden, tôi không đồng ý. Cuối cùng tôi thấy người phi công lái chiếc Bf109 bay nhanh phía trước, lắc cánh ra hiệu cho tôi theo, không còn lựa chọn tôi bay theo, độ hơn một giờ sau tôi nhìn thấy biển Bắc. Chiếc phi cơ Bf109 bay chậm lại song song với tôi, đưa tay chào, rồi lắc cánh nhẹ vài cái, dấu hiệu tạm biệt của người phi công, rồi mất dạng trong sương chiều.


Như một phép lạ, anh Charlie Brown bay được 250 miles (400km) qua biển Bắc. Sau cùng đáp ép buộc xuống phi trường của hoàng gia Anh ở Seething, nơi đồn trú của phi đoàn 440th bomber group, chỉ có một người chết, còn tất cả những người bị thương đều được cứu. Sau đó tất cả phi hành đoàn báo cáo với sỉ quan chỉ huy ở đây, họ được chỉ thị giữ kín chuyện này, vì nói ra sự thật có vẽ phản tuyên truyền, vì không thể có một phi công Đức nào hào hùng và độ lượng với kẻ thù như vậy. Sau chiến tranh Charlie Brown ở lại phục vụ trong không lực Hoa Kỳ cho đến năm 1972 giải ngũ với cấp bậc trung tá sống tại Florida.


Câu chuyện không chấm dứt ở đây. Trở về lại quê hương, anh Charlie Brown viết rất nhiều thư để mong tìm ra tông tích người phi công Đức đã không cướp đi mạng sống của cả phi hành đoàn chiếc B17 của anh. Tìm một người phi công sau một cuộc chiến tranh tàn khốc, không tên họ, chỉ có một câu chuyện, đâu phải dễ tìm. Không nản lòng anh vẫn tiếp tục. Cuối cùng vào năm 1989, sau 46 năm tìm kiếm, Charlie Brown đã tìm ra được người phi công bí mật, lái chiếc Bf109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức), cũng là một thiên thần độ lượng trên vòm trời Bremen vào những ngày cận giáng sinh năm 1943. Đó là anh Franz Stigler. Sau khi chiến tranh chấm dứt anh Franz Stigler di cư sang sống ở Vancouver, Canada. Trong bức thư đầu tiên anh Franz Stigler viết cho Charlie Brown: “Suốt bao nhiêu năm dài tôi luôn tự hỏi, không biết chiếc B17 đó có đưa phi hành đoàn về đáp an toàn hay không".

 

Họ gặp nhau sau 46 năm tìm kiếm, diễn ra rất cảm động. Anh Franz Stigler hồi tưởng: Tôi được lệnh cất cánh rượt đuổi bắn hạ chiếc B17, tống ga đuổi kịp, thì tàu của tôi báo hiệu máy đã nóng vượt bực, tôi đến từ phía sau quan sát chiếc B17. Một cảnh tượng thật tang thương, phần đuôi của con tàu gần như tan nát, một lỗ hổng lớn có thể nhìn từ đuôi cho đến cockpit, người xạ thủ "tail gun turret" nằm chết đong đưa, nửa trong nửa ngoài trên pháo tháp. Tôi bay lên quan sát bên thân tàu, cả một vùng thân đầy lỗ đạn to lớn, tôi có thể thấy cả phi hành đoàn bị thương nằm la liệt bên trong, người trưởng phi cơ đang vật lộn với con tàu mong giữ được bình phi. Tôi ra hiệu cho anh ta theo tôi đáp xuống một căn cứ gần đó, để cứu những phi hành đoàn bị thương. Anh ta nhìn tôi chăm chăm, rồi nhè nhẹ lắc đầu, tôi không có can đảm giết những người anh hùng không còn vũ khí để tự vệ. Tôi là một người phi công hào hùng, tôi chém giết để bảo vệ quê hương tôi nhưng không hề có thù hận. Khi còn chiến đấu ở Bắc Phi, người chỉ huy của tôi đã nói, nếu tụi mầy bắn một người phi công đã nhảy dù ra khỏi phi cơ, đó là một hành động tồi tệ, tao sẽ là người bắn rơi tụi mầy. Trong trường hợp nầy cũng vậy, chiếc B17 nầy không còn tự vệ được, tôi phải để cho họ có một cơ hội. Ngày mai tôi sẽ bắn họ khi họ ngang ngửa với tôi. Biết là không thể thuyết phục được người trưởng phi cơ B17 tôi bay ra phía trước lắc cánh, tôi cũng mừng khi thấy anh đã bay theo tôi, hướng dẫn chiếc B17 độ một giờ sau thì tôi thấy biển Bắc, tôi bay chậm lại song song, chào anh ta rồi quay trở về đáp, dĩ nhiên là tôi phải báo cáo với cấp trên, là tôi đã bắn hạ chiếc B17 trên biển.


Anh Charlie Brown và Anh Franz Stigler trở nên đôi bạn thân, họ đã gặp lại nhau nhiều lần, sau đó họ đã được không lực Hoa Kỳ bạn tặng những huy chương cao quý. Anh Franz Stigler mất ngày 22 tháng 3 năm 2008. Anh Charlie Brown mất ngày 24 tháng 11 năm 2008.


Những người anh hùng trên một đất nước anh hùng, dù thắng hay bại vẫn được coi trọng, "luận anh hùng không dựa theo thành bại”. Người Nhật người Đức, sau khi bại trận vẫn được người Mỹ kính trọng. Còn Việt nam mình thế nào? Những người lính miền Nam bại trận được đối xử ra sao? Nếu không có người Mỹ và thế giới tạo áp lực, chắc chắn người Nga đã để cho Cộng Sản việt nam giết chết hết hai triệu Quân Cán Chính của miền Nam trong tù, mà họ gọi là trại cải tạo, giống như họ đã làm ở Tiệp khắc, Ba Lan, và ngay tại Liên bang xô-viết.
 Phiên dịch: ĐÔNG QUYÊN

Friday, August 22, 2025

Giáo Sư Trần Ngọc Ninh 1923 -2025 Và Ước Vọng Duy Tân (P. 2)

 

Hình 9: Tại nhà Võ Phiến 30.07.1994, từ phải: Gs Trần Ngọc Ninh, Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến, vợ chồng nhà văn Lê Tất Điều. [tư liệu Viễn Phố]

MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN

Biến cố 1975, một cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ sau ngày phân chia đất nước với Hiệp định Genève 1954.

Sau 1975, vẫn các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc vào Nam còn ở lại như Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Nguyễn Đình Cát... Các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi ngày phải đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện hay xa hơn tới trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các Thầy ngoài việc chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy cho sinh viên, từ nay còn phải làm thêm việc của y công như lau quét các phòng vệ sinh và cả đổ rác. Không làm sao mà quên được cảnh tượng một Gs Phạm Biểu Tâm phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân. Thầy Tâm rất sợ Cô lo, nên dặn dò không báo tin cho Cô biết.

 

Như từ bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy vẫn luôn giữ được nhân cách cao trọng của người trí thức, không phát biểu những lời xưng tụng chế độ mới. Các Thầy cũng không thể không não lòng khi hàng ngày phải chứng kiến trình độ dốt nát của nền y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học “chỉ có hồng mà không chuyên” nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra.

 

Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng một cựu nội trú bệnh viện lâu năm kể lại, là khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe vú?” Bs Dũng đáp: “Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu.” Dũng đã bị họ mắng: “Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả.” Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao ngán lắc đầu. (3)

 

blank

Hình 10: Tại nhà Gs Trần Ngọc Ninh 1994, từ trái: nhà văn Võ Phiến, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Văn Trung từ Montréal Canada, Ngô Thế Vinh. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

 

 

Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những ngày ảm đạm như thế, Gs Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng chua chát và khinh mạn: “Hội chẩn với mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro.”

 

Giáo sư Vũ Quí Đài vị khoa trưởng cuối cùng của Y khoa Sài Gòn, còn nhớ là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp thu trường Y khoa, họ triệu tập một buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn nơi đại giảng đường gọi là để trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm dọa, Gs Vũ Quí Đài kể: “Lúc ấy Gs Trần Ngọc Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều: Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu (3)

 

blank

Hình 11:  Bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012.

 

 

blank

Hình 12: thủ bút của GS Trần Ngọc Ninh gửi Ngô Thế Vinh khi ra mắt cuốn sách Ước Vọng Duy Tân 2012. [tư liệu Ngô Thế Vinh] 

 

Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh tâm sự:

“Trên bình diện khoa học, sau khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam rồi, cuộc đấu tranh mới bắt đầu giữa Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa nhân dân của miền Bắc. Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân là nạn nhân, nhưng cũng là tòa án, tòa án nhân dân. Giải thưởng là tương lai sức khỏe của Việt Nam. Sức khỏe cùng nghĩa với sức lao động. Chủ nghĩa không che lấp được sự thật...

 

Năm 1977, sau khi nghe được lệnh của các vị lãnh đạo y học miền Bắc rằng từ nay không được dạy y lý nào “cao” không thể áp dụng ở Việt Nam như biến hóa của nước và các chất điện giải hoặc pháp dùng thuốc kháng sinh với những kháng sinh sau đời penicillin, hoặc những phẫu thuật quá cầu kỳ khó khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu lớp bệnh lý phẫu khoa của tôi: “Đây là lần cuối cùng và các anh chị em là những sinh viên cuối cùng mà tôi giảng Y khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng Y khoa nhân dân. Và anh chị em cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những người thừa tự chót của Y khoa khoa học.”

 

Sinh viên Nguyễn Thanh Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng, bị bắt giam ở Chí Hòa, đã được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự do, năm 1976 Công trở lại trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe được những lời nói ấy, Công dự định lập “Tòa án Nhân dân” để hạch tội tôi. Không phải vì thế mà tôi rời Việt Nam”.

 

Gs Ninh nhận định tiếp: “Do nhận thức được toàn bộ chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là sự mạo danh xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời. Và điều tệ hại hơn nữa là ‘Đảng và Nhà Nước muốn cưỡng chiếm Y khoa khoa học để dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa nhân dân là để cho nhân dân’.” (6)

 

Và rồi rất sớm, chỉ hai năm sau ngày 30/4/1975 vào ngày 6 tháng 6 năm 1977, Gs Trần Ngọc Ninh đã cùng gia đình xuống thuyền vượt biển tìm tự do, giữa lúc ông được chúc mừng là một trong số bốn người được Hội Đồng Chính Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư với lương bổng cao nhất.

 

blank

Hình 13: Bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn 1954-1975. Trần Ngọc Ninh, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002. (tr. 38-39, đề cập tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa Khoa Học của miền Nam & Y Khoa Nhân Dân của miền Bắc). [tư liệu Ngô Thế Vinh] (6)

 

Cuối cùng ông và gia đình tới được đảo Pulau Besar, Mã Lai, và ông chọn đi định cư tại Hoa Kỳ để phải bắt đầu lại từ đầu, thay vì đi Pháp là nơi mà ông đã được đào tạo và thành danh.

Sự bỏ đất nước ra đi rất sớm của một khuôn mặt trí thức lớn như ông lúc đó đã gây ra một chấn động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và trên toàn trí thức miền Nam thời bấy giờ.

 

blank

Hình 14: Làm Gì? một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần Ngọc Ninh không muốn được nhắc tới. Là một giáo y khoa với tiếng tăm quốc tế nhưng khi tới Mỹ như một bác sĩ ngoại quốc, ông vẫn phải khởi nghiệp từ đầu. Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn có hùng tâm hoàn tất một tập luận đề chính trị trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu” (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado). [tư liệu Ngô Thế Vinh]

 

DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN

Tôi tới Mỹ sau Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi cả hai thầy trò sau một thời gian đèn sách trước sau cũng trở lại nghề cũ. Từ New York, tôi về làm việc trong một bệnh viện VA ở vùng nam California, tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi vẫn có dịp được gặp Thầy.

Trong một buổi gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tùy bút nổi tiếng của miền Nam từ trước 1975, lúc ấy anh Võ Phiến còn ở trên Los Angeles; anh thú vị đem ra khoe chiếc bình trà của Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất quý Nguyễn Tuân. Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình trà sau bao năm quen dùng. Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một chuyến anh chị sang Pháp năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.

Chiếc bình trà nhỏ giản dị bằng sứ tráng men xanh, nơi mặt đáy có in chữ Tonkin như vậy đã khá lâu năm, trông rất tầm thường nhưng là của Nguyễn Tuân. Một Nguyễn Tuân với những trang tùy bút mượt mà của Vang Bóng Một Thời, của Chén trà trong sương sớm với nhân vật cụ Ấm, có phong cách uống trà gần như một thứ trà đạo.

 

Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm nói với người con trưởng:

“Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học yêu như con...

Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.” [hết trích dẫn, Vang Bóng Một Thời]

 

Đó là văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến, của một thời vang bóng.

 

*

 blank

Hình 15: Thăm nhà văn Võ Phiến trên Los Angeles, từ   trái, Gs Trần Ngọc Ninh, nhà văn Võ Phiến, Ngô Thế Vinh; phải: Trần Ngọc Ninh cầm trên tay ấm trà nhỏ của Nguyễn Tuân mà Võ Phiến đem khoe. [tư liệu Viễn Phố]

 

Để rồi tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân hóa thân; rất biết sợ bạo quyền để tồn tại, mau chóng xu thời để được vào đảng, rồi leo lên tới chức Tổng thư ký hội Văn nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất, Nguyễn Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo “Nhìn rõ sai lầm” quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng Một Thời, đã làm nên tên tuổi Nguyễn Tuân. Sau đó là một Nguyễn Tuân đã biết vận dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên đường xã hội chủ nghĩa.

 

Nếu với Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy của thể văn tuỳ bút trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký hết lòng phục vụ Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được xếp là một cây bút tuyên huấn hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc tới với câu nói: “Tôi còn sống được đến hôm nay là nhờ biết sợ...”

 

Người bạn tấm cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975 khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn, tới Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo Thơm 1962 in tuyệt đẹp với những tranh minh hoạ của Nghiêu Đề, thì đó là một Nguyễn Tuân hả hê về cuộc hội ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã hơn một lần dứt khoát chối từ.

 

Bình trà nhỏ mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm trên tay ngắm nghía kia, không phải của cụ Ấm với Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn Tuân theo kháng chiến, mỗi ngày đã rót ra những chén đắng trong suốt hành trình bi kịch của hơn nửa đời người.

 

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Năm 2004, khi bản tiếng Anh the Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do Nxb Ivy House xuất bản, Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:

 

 

blank

Hình 16: Hình trái, bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn Vòng Đai Xanh do Ivy House, USA xuất bản 2004; giữa, bìa Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ Sài Gòn 1970; phải, bìa sách song ngữ Vòng Đai Xanh / The Green Belt, Nxb Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020. [tư liệu Ngô Thế Vinh]

 

“Ngô Thế Vinh bắt đầu viết văn khi đang còn là một sinh viên. Từ 1963, cùng với các bạn trong đại học Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn cho những ý tưởng nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang nặng tính “chủ nghĩa”. Ngay khi còn là một nhà báo sinh viên, từ rất sớm, Ngô Thế Vinh đã quan tâm tới vấn đề người Thượng.

Sau khi tốt nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách Dù chủ yếu hoạt động trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai Xanh là bối cảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh thật, người thật, và “thật hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng giữa cuộc chiến tranh và ngay sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với phe bại trận tiếp theo sau một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một công trình của lương tâm và dấn thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên, cuốn sách đã được giới trí thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng đồng thời cũng bị chính quyền miền Nam lên án là phá hoại.

 

Bây giờ đã 30 năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh rất tuyệt của Nha Trang và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng rãi, bởi vì vấn đề sống còn của các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung phần được đề cập tới trong Vòng Đai Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của hôm nay.

 

Đối với người Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc chiến tranh hôm nay và cả trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà Vòng Đai Xanh như một điển hình đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những sắc dân Thượng ấy đã không có tiếng nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm lặng” của họ mới thực sự được lắng nghe? [Trần Ngọc Ninh, Viện Việt Học, tác giả Tuyết Xưa]

 

 Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt, tôi đều có gửi biếu Thầy Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với một câu trả lời: “Vinh bây giờ đã thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa.” Tôi lãnh hội ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.

 

MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC

Khác với thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào chính trị và cả đảng phái, nay sắp bước vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý viết về Gs Trần Ngọc Ninh và có cảm tưởng với Thầy Ninh, chính trị nay như một giai đoạn đã vượt qua và Thầy chỉ muốn được nhắc tới như một “chân dung văn hóa”.

Nói về văn hóa, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một trích đoạn trong Tuyết Xưa [tr.100]: “Đối với các cộng đồng người, văn hóa vừa là một dấu hiệu để nhận nhau và phân biệt ‘kẻ-kia’ vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự sống của đoàn thể trong cái phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ.” (2)

 

Viết về Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới hơn một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, thì chân dung văn hóa của Gs Trần Ngọc Ninh là một đề tài rất phong phú và hấp dẫn để các bạn khám phá dấn thân vào.

Như một tâm sự cuối đời, khi trả lời Trần Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ sau này ở Viện Việt Học, Gs Trần Ngọc Ninh phát biểu:

 

“Đến nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy rằng sự hiểu biết, sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn của các hiện tượng (trong đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận sinh học của con người trên mặt đất này. (1)

 

SỰ RA ĐI CỦA MỘT NHÂN VẬT CÔNG CHÚNG ĐÁNG KÍNH

Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.

 

 blank

Hình 17: Bia mộ của Giáo sư Trần Ngọc Ninh. [photo by Dr. Nghiêm Đạo Đại, thứ Hai, ngày 11 tháng 8 năm 2025, tư liệu của Việt Nguyên]

 

 

NGÔ THẾ VINH

Hà Nội 1954 - Sài Gòn 1975

California, July 11, 2018 – August 16, 2025

[ CREATIVE WORLD OF SOUTH VIETNAM

& OVERSEAS TO THE PRESENT VOL.2 ]

 

 

Tham Khảo:

1/ Ước Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh. [chủ biên Trần Uyên Thi]; Viện Việt Học xuất bản 2012

2/ Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000

3/ Giáo sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập San Y Sĩ Canada 201, tháng 5/2014

4/ Mười lăm năm ấy, Kỷ niệm về Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu Trần Ngọc], Nguyệt san Tình Thương, số 1, tháng 1/1964.

 . 5/ Nhà Văn Triều Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản thảo,   số. 77, tháng 11/2017

6/ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada 2002

7/ Tạp chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt Online

8/ Thư tịch của GS Trần Ngọc Ninh. Phạm Lệ Hương, Ban Thư viện Viện Việt Học 18/04/2020