Giọng nói nghe từ điện thoại, vẫn
nhỏ nhẹ như ngày xưa mang đậm chất Huế của Chỉ huy trưởng Đoàn 1 Thiếu tá Tống
hồ Huấn đang làm lòng mình rung lên niềm cảm xúc lan nhanh toàn cơ thể…Ôi thời
gian, thế là đã bốn mươi năm qua đi chồng chất nhưng không thể xóa tan kỷ niệm.
-Ngày ấy tức khắc trở về từ ký ức
-Phi trường Phan rang vào khoảng 9 giờ
sáng. Mặt trận vỡ tung trước sức tấn công đầy hỏa lực của quân đội Bắc việt… Hàng
chiến xa địch dẫm nát mọi cộng sự phòng thủ theo sau là binh đoàn trong sự pháo
kích liên miên của pháo binh . Quả thật mặt trận đành thúc thủ. Bộ tư lệnh đã
mấy ngày qua ráo riết xin phi cơ và pháo binh can thiệp nhưng sự im lặng từ cấp
trên đã làm tá hỏa nhiều người và tự hỏi…chỉ còn vũ khí cá nhân để chống
cự? Ai đó đã trói tay binh lính và kết
quả theo ý muốn của họ là Mặt trận đổ xụp! Chạy tán loạn như bấy ong vỡ tổ về
phương Nam.
Đoàn 1 chúng tôi trực thuộc Bộ tư lệnh mặt trận cũng chịu chung số phận và Mặt
trận không có sự giao tranh…Địch chiếm lĩnh dễ như lấy đồ trong túi.
-Hôm nay trời đẹp, nắng dịu vào ngay buổi
sáng và làn sương mù ban đêm đang dần tan. Hôm qua thông báo cho anh Chức và rủ
đi gặp anh Huấn (CHTĐ 1) nhưng phút cuối anh Chức lại bận việc.
-Nắng đã lên cao thế rồi địa chỉ nhà Anh
Huấn cũng đã được tìm tới. Một bà lão ra cửa hỏi tên và vui vẻ mời vào. Đúng
lúc này Anh Huấn xuất hiện, khuôn mặt rạng rỡ với nụ cười Anh đi nhanh về phía
vợ chồng tôi. Lòng tôi bỗng xôn xao trong cái bắt tay và lịm người cảm xúc khi
ôm chầm lấy nhau. Những hình ảnh đẹp của 40 năm trước dần hiện ra và sau hết là
lần Anh rời trại cải tạo sau câu nói “Thôi, Hải về sau nhé…” Một cô gái vừa đi
đâu về “chào Cậu” rồi chào vợ chồng tôi. Bầu không khí thân mật bao trùm cùng
Anh bá vai tôi đi vào nhà. “Ui chà Hải còn khỏe như ri là mừng rồi.” Khi đã yên
vị trện bộ sa lon…Niềm nở và nụ cười luôn trên môi…Anh vẫn như ngày nào chỉ già
đi đôi chút, cử chỉ luôn nhẹ nhàng, nói năng nhỏ nhẹ giọng đặc Huế luôn toát
lên vẻ tự tin của một người ý thức được phẩm giá của mình, không thích ồn ào
khoa trương.
-Thời gian như được kéo dài qua những
câu chuyện theo dòng ký ức cùng bữa cơm trưa mà Anh bảo “…đã chuẩn bị từ hôm
qua.” Tôi cảm nhận được tấm lòng rộng mở của Anh và khắc ghi mối thân tình cùng
những lời tâm sự phá tan mọi định kiến sai của tôi về Anh…Xin cám ơn…Chỉ huy
trưởng của tôi.
-Bịn rịn chia tay lúc trời đã về chiều
Anh còn không quên cầu nguyện cho bệnh U gan ác tính của tôi được Thiên Chúa chữa
khỏi…Vợ chồng tôi cũng ngỏ lời mời Anh lên nhà tôi chơi.
-Mùa mưa năm nay đến trễ cả tháng so
với mọi năm. Ánh nắng ban mai đã hết tháng sáu nhưng chói chan da mặt nóng rát
từng vuông da thịt. Chuông điện thoại réo vang và Anh Thương báo trưa nay sẽ
cùng Anh Huấn và vài anh em tới thăm. Việc đầu tiên tôi gọi cho Anh Chức không
quên dặn nhớ tới nhà chở Vợ Trần Quang lên luôn. Vĩnh và Huệ cũng được báo và
tôi lo chuẩn bị bữa ăn đãi khách.
-Dung bà xả tôi vừa đi chợ về thì Anh
Chức chở chị Quang tới “…Ồ may quá có người phụ rồi” Thế là anh em tíu
tít cỗ bàn. Thời gian trôi nhanh, thoắt một cái nhìn đồng hồ đã gần 11 giờ. Tôi
đã ra cổng hai lần và cứ vậy vào trông ra ngóng “…như gà mắc đẻ…lần nào cũng
thế…cái tật đợi khách vẫn vậy! “ Tiếng
nói của vợ tôi như phân bua cùng Anh Chức và Chị Quang. Phần tôi sao thấy thời
gian bây giờ chậm hẳn và kim đồng hố như không nhúc nhích!
-Mọi người mừng rỡ khi gặp lại nhau. Có
cả những giọng run run trong xúc động giữa cái bắt tay và ôm chầm. Thời gian 40
năm đủ để xóa tan những định kiến hoặc quên đi những mâu thuẫn với nhau. Không
khí thân mật trùm phủ và quanh bàn tiệc tha hồ những kỷ niệm được gợi lại cũng
như hỏi thăm đồng đội. Thời gian cứ trôi và bàn tiệc cứ “dô,dô” bên những mẩu
chuyện xồ ra từ ký ức.
-Anh Huấn giờ đang nói riêng cùng Anh
Chức còn Anh Thương…Một lần nữa rủ tôi ra Đànẵng thăm bạn bè CCN xưa cũ. Anh
mạnh dạn “ đi đi…Tau đây bao hết…” Ông chủ xe đang nhắc anh em về thời giờ để
về cho kịp tối. Mọi người kéo nhau ra vườn
chụp ảnh rồi chia tay trong tiếng cười nói giọng hả hê. Một lần nữa xin
cám ơn Chỉ huy trưởng kiêm Mục sư Tống hồ Huấn.
-Thế rồi chuyến “về nguồn” cùng Anh
Thương được thực hiện…Thăm lại chiến trường xưa, căn cứ cũ cùng đồng đội còn cư
ngụ tại Đànẵng. Những người lính Biệt kích Lôi hổ ngày xưa…Chúng tôi đã nhắn
tin và anh em sẽ đón tại phi trường. Chuyến đi còn có một dự tính nữa…Anh
Thương về Huế lo đám giỗ Mẹ còn tôi ước ao nhìn lại những nơi một thời thơ ấu.
-Ra khỏi cửa máy bay tôi nhìn ngọn núi
Phước tường hôm nay có sương mù nhẹ và đã có vài hạt mưa lất phất. Mặt trời dấu
trên cao dù đã mười giờ rưỡi sáng. Tôi bâng khuâng và bồng bềnh theo ký ức…Cũng
từ 43 năm trước chiếc C46 của hãng Air America đưa tôi rời phi trường này trong
lúc chiến trường đang bùng sôi động của cái gọi là “Mùa Hè đỏ lửa” Quân đội Mỹ
đã cuốn cờ và đang dần rút khỏi Việt nam…bỏ lại những căn cứ quân sự cũng như
tình đồng đội…Họ âm thầm và lạnh lùng ra đi.
-Tiếng Anh Thương “Hải ra trước…xem
có ai nhận ra không? “ Tôi cứ vậy rảo bước rồi thấy rõ đằng xa những cánh tay
vẫy theo chân bước gần như là chạy đến với nhau “Tiến, Lâng.” Tôi gọi to hai
tên người mình vừa nhận ra…có chút gì đổi thay trên gương mặt vì bởi thời gian
và nắng gió cuộc đời.
-Anh em ra đón khoảng chừng mười
người…Những đồng đội cũ có người khác lạ vì thời gian…phải nói ra mới nhận được
nhau…Thái, Đức, Thi, Bẩy, Anh…Bầu không khí thân mật bao phủ và quấn quit lấy
chúng tôi trong mưa lác đác nhẹ hột hiu gió. Trước lúc lên xe rời phi trường
tôi xoay một vòng nhìn từ ngọn núi Sơn chà sang Ngũ hành sơn đến núi Phước
tường. Và kín đáo từ ký ức một thời chinh chiến với mối u hoài ngày thất trận
trấm lắng đến nao lòng.
-Bàn tiệc ngả nghiêng nói cười cùng
mỗi câu chuyện…dĩ vãng lại hiên ngang những kỷ niệm đời lính có từ cõi xa xăm
trở về chói lọi. Mọi người đều say xưa tình bạn quên hết đời thường. Ngoài kia
chiều đang xuống chợt vùng lên ánh nắng vàng rơn nhảy múa quanh quanh đũa bát
xô lệch cùng bầu khí sôi động không dứt như chả cần biết đến thời gian. Đến bên
tôi Đức con nói “Mai em rảnh sẽ đưa anh đi về thăm bất cứ nơi nào anh muốn…” Ấn
tương trong tôi Đànẵng khác xưa rất nhiều…bỗng nhiên quá khứ lắng sâu…nghe hơi
thở người xưa thì thầm qua ký ức thời gian.
-Nhà thờ Phước tường hiện ra trước mặt.
Bước vội vàng tôi như muốn chộp vội thời gian. Dù dấu xưa thấp thoáng ẩn hiện.
Anh Thái và Đức con đang tìm chỗ dựng xe. Có hai Cảnh sát giao thông vừa đi qua
quay đầu lại nhìn chúng tôi rồi đi thẳng. Tôi hỏi thăm một người vừa từ nhà thờ
đi ra nhà ở của Cha Lợi “Cha cố Đinh hưng Lợi đã về hưu và nhà ở đâu đây nhưng
chắc chắn phải là đi qua khỏi đường xe lửa…” Và theo tay chỉ tôi nhận ra ngay
ngôi nhà cửa gỗ màu xanh bên cạnh tiệm bán hoa kiểng. Chưa vội, tôi đi quanh
nhà thờ…bắt gặp nhiều kỷ niệm thời thơ ấu vẫn đi dự Lễ hằng ngày và việc cần
thiết bây giờ là tìm cho ra đường vào nhà tôi sau lưng nhà thờ.
-Thời gian xóa nhòa dấu xưa, Anh Thái
chở tôi đã phải vất vả qua những con hẻm và tôi chỉ còn biết nhắm hướng vào sâu
là có thể gặp. Đứng lại nơi ranh giới cuối cùng trước mặt khu đất trống…Đúng
như người bạn tôi nói “Khu gia binh khi xưa, giải phóng xong là bị giải tỏa…”
Thất vọng lòng tôi rung lên niềm thương cảm như thật sự đã đánh mất thời ấu
thơ, niên thiếu?! Ngậm ngùi đôi mắt giọt lệ như muốn tuôn trào…Hình ảnh ngày
xưa vùng lên trong trí…Căn nhà tôi có giàn hoa Thiên lý trước sân. Mẹ tôi và
món hoa Thiên lý nấu với giò sống…tô canh nóng thoảng nhẹ mùi hoa rập rờn trong
làn khói mỏng và gợi cảm với những lát giò nâu hồng. Nhưng tôi vẫn thích bát
canh cua đồng thiên lý…nhìn những tảng thịt cua nâu làm nổi bật màu xanh nhạt
của hoa và màu vàng rộm của gạch cua tạo nên một bức tranh pha màu đặc sắc.
-“Con lạy Cha…” Cha Cố đang ngồi trên
ghế bố nhựa dựa lưng. Vẫn dáng vẻ gầy ốm, nhưng nay gương mặt già nua thấy cả
xương. Ngài chỉ tôi hỏi “Ai vậy…thấy hơi quen…” Tôi run lên vì cảm động và quì
xuống bên cạnh “lạy Cha con là Hải đây…ở khu gia binh ngày xưa.” Tôi nghẹn lời
theo từng câu nói rồi bất chợt Cha cầm lấy tay tôi “ Hải nghịch ngợm thường ăn
đòn…phải không?” Tôi “dạ thưa Cha “ trong nghẹn ngào ứa nước mắt. Thời gian qua
nhanh, tôi từ biệt Cha sau những lời thăm hỏi và cái ôm tình nghĩa cùng chụp
chung vài tấm ảnh kỷ niệm. Ra đường đi qua khỏi đường tàu lửa…ngó nhìn xung
quanh…chắc chắn sau lưng là ngọn núi Phước tường đầy kỷ niệm một thời…bên kia
là Trường Lê bảo Tịnh rồi đến Chùa Phước tường…tiếp là khu chợ.v.v. tất cả đều
đổi khác nhưng còn mập mờ chút ít nét xưa.
-Qua khỏi ngã ba Hòa cầm…rẽ trái xe
đang tiến vào khu Cẩm lệ, khi xưa là Quận Hòa vang thời tôi còn đi học…Tuy cảnh
vật khác xưa rất nhiều nhưng không khó để tôi còn nhận ra ngay trường Tiểu học
Bình khuê Cẩm và trên nửa chừng cây số là trường tôi học…Trung học công lập Hòa
Vang. Ký ức lại ùa ra trong trí và cảm nhận một thời học trò cùng bè bạn tươi
vui trường lớp. Đứng trước cổng Trường lòng tôi lại nôn nao hình ảnh lớp
học ngày xưa những gương mặt Thày Cô,
bạn bè vụt hiện ra…Tất cả đều đã theo thời gian…nhưng Trường cũ vẫn còn đây. Tôi
bước vào Trường lúc nào chẳng hay và nhận ra ngay dẫy nhà dài hàng ngang lúc
xưa mà nay chả khác gì mấy. Dẫy nhà hàng dọc mới xây cùng cái cổng Trường…Họ đã
phải phá đi hàng cây thông và nhà xe để lấy chỗ. “Ông à…ông về thăm Trường có phải
không?” Tôi quay lại nhìn người đàn bà cũng đứng tuổi và lên tiếng “phải…bà chỉ
cho tôi phòng Hiệu trưởng để xin phép.” Có lẽ cũng đã quá quen với những trường
hợp vừa qua nên người đàn bà vui vẻ hướng dẫn và tôi cũng được phép thăm trường
khi gặp thày Hiệu phó.
-Không gian yên tĩnh vì là mùa nghỉ
Hè…Chân tôi bước ngoài hành lang lòng rạo rực nhớ về thời xưa cũ…những khuôn
mặt trẻ măng trong ký ức…nhìn từng lớp, từng lớp năm đệ thất, đệ lục, đệ ngũ và
lớp đệ tứ sát với phòng Hiệu trưởng rồi vụt qua hình ảnh…Thày Tình, thày Hường,
thày Vinh, thày Cẩn, cô Hội Minh cùng bạn bè trong lớp nhất tề xôn xao trong
trí.Chân tôi đang đến cuối hành lang nếu rẽ phải trước kia là khu vệ sinh. Và
tôi đang đi với bao kỷ niệm chồng chất…vui cười buồn lâng trong tâm trạng hưng
phấn toại nguyện.
-Xe đang trên con đường dẫn vào Ngũ
hành sơn. Những cánh đồng hai bên vùn vụt lùi nhanh. Anh Thái chở tôi nói “Trại
mình khi xưa không còn nữa…chỉ còn mảnh đất hoang.” Tôi thấy những ngọn núi
trước mặt và cái bóng của quá khứ chực chờ. Lòng tôi lâng lâng khi xe vừa qua
khỏi chân núi chính mà hồi xưa sát bên là Trại Biệt kích CCN (Command & Control
North) Anh Thái và Đức con dừng xe và đưa tay chỉ “Đó…giải tỏa hết để bán đất.”
Tôi lặng im thì thầm “…43 năm đã trôi qua.” Và thấy thời gian như vết cắt vào
da thịt…đang chậm đưa tôi vào dĩ vãng.
-Bãi đất trống hiện nay tự nhiên xuất
hiện ngăn nắp hình bóng cũ.
-Qua hàng rào phòng thủ là bãi trực
thăng cạnh cổng vào Trại và bên sát núi là lô cốt gác đầu tiên. Đức con được
phân nhiệm vụ coi xe để tôi và anh Thái dẫn bộ…Bước vào sân trực thăng trước
kia được đổ bằng một lớp nhựa làm đường nhưng nay mất không còn một miếng!
Những mảng bê tông chen vào cát đang làm chân tôi đôi khi phải hụt hẫng khó
khăn từng bước và bên trên là thoai thoải đồi cát cũng còn có nghĩa sắp bước
tới con đường ngang phân chia với bãi trực thăng. Bước chân dần lên phía trái
là phòng 1 (phòng hành chánh) kế một bên là Trung tâm hành quân (TOC) nằm sâu
trong lòng đất với vòm bê tông che phủ để chống pháo kích. Bên tay mặt là Đài
huấn luyện cao 22 mét nơi bắt đầu của con đường xẻ đôi căn cứ mà bên nó thứ tự
là Khu cấm (Isolation) nơi cách biệt dành cho Toán hành quân…sau kế là nhà kho,
xưởng bảo trì xe, bệnh xá rồi lên đồi cao Trung tâm chỉ huy phòng thủ Trại
(Alamo) Bên phía trái là khu nhà ở của cố vấn Mỹ tiếp đến nhà chiếu phim Trại,
nhà bếp và Câu lạc bộ. Bên tay mặt là nhà bếp và Câu lạc bộ Biệt kích. Lại một
con đường ngang mà trước nó là khu ở của Đại đội Thám sát (Recon company) kế
bên với Đại đội A Nùng.(Hatchet force Nùng). Toàn Trại được bao quanh bởi hàng
rào phòng thủ bằng kẽm gai chằng chịt và có con đường chạy song song để tuần
gác. Riêng phía sát với núi Non nước cách biệt phía ngoài hàng rào là sân tập
bắn…Bên trong cạnh hàng rào là khu nhà ở của Đại đội B Thượng (Hatchet force
Thượng) và Đại đội C (phòng thủ Trại). Cuối cùng là cổng sau ra biển để vui
chơi giải trí.
-Gió từ biển lộng vào nhưng nay có
một Resort án ngữ và tôi chắc rằng nơi đó khi xưa…khu Đại đội Thám sát và Đại
đội A. Nắng đã ở trên cao, gió biển thốc vào núi lại quẩn quanh như những ngày
nào và tôi nghe âm thanh vọng về tiếng trực thăng của Phi đoàn 219…bốn chiếc
H34 đen rằn không số hiệu đang xuống bãi vào đúng cái ngày tôi nhập Trại 26
tháng 5 năm 1968.
-Trại CCN (Command & Control
North…Nhân viên kiểm soát Bắc) được thành lập vào năm 1967 trong chương trình
chiến tranh ngoại lệ…Kế hoạch OP35. Thực hành nhiệm vụ Biệt kích…do thám đường
mòn Hồ chí Minh…tấn công từ trên không…phá hoại cơ cấu hạ tầng địch. Địa bàn
hoạt động được kéo dài từ Attopeu về hướng bắc tới Tchepone và đường số 9 ráp
ranh với địa bàn thuộc hai quân khu 1 và 2 . Attopeu nằm về phía đông nam vương
quốc Lào sát khu vực ba biên giới Việt nam, Lào, Campuchia và nam Tây nguyên.
-Tôi xoay người nhìn vào khu bãi tập
bắn ngày xưa và chắc chắn rằng dưới vách núi kia là cả một rừng đầu đạn…Tôi
muốn đến đó để lượm…nhưng nghĩ sao lại thôi! Phóng mắt nhìn quanh dấu tích chỉ
còn những mảng bê tông…như dấu tích của sự héo úa…đã chết và lăn lóc. Có một
thoáng hương kỷ niệm lại đến phảng phất hiu hiu gió tạt qua ngang khóe mắt tự
dưng lạnh mát nhanh như một luồng điện… trong tôi những xâu chuỗi liên tưởng và
hồi tưởng tràn về từ quá khứ. Nắng lung linh nhẩy nhót trên mây trời vừa đi
qua. Không gian yên tĩnh gợi buồn. Vừa đi ra tôi lục lại trong ký ức những hình
ảnh cũ còn sót…tưởng tượng và ngậm ngùi. Thân như có một vết thương sâu hoắm
trí mạng của ngày 30 tháng tư…1975. Ngoài kia cây Phượng sắp trổ hoa có những
chiếc lá theo gió rơi rụng cùng tôi chút buồn man mác giấc trưa…Ngọn Ngũ hành
sơn âm thầm chứng kiến và mảnh đất này vẫn khắp cùng kỷ niệm một thời vang
bóng.
-Mùi hương đồng cỏ lúa ngạt ngào từ
hai bên xanh rì một màu lúa thời con gái theo gió qua lại như vẫy chào. Một
đoàn khách du lịch người tây phương đang đạp xe trên con đường ruộng bằng bê
tong chạy thẳng tắp trên cánh đồng. Ánh nắng chói chan hòa cùng những bộ tóc
vàng phất phơ chiều gió. Trước mặt đã ẩn hiện những ngôi nhà nhô ra từ khoảng
trống cây xanh lá và chúng tôi êm đềm lao nhanh vào Phố…Phố cổ Hội an.
-Nhà của Tâm Tiến bạn tôi bên bờ sông
Hoài phố cổ…nép mình bên những quán cà phê, khách sạn mang phong cách hiện
đại…Quá khứ và hiện tại chen nhau. Nhưng nhà bạn tôi vẫn còn giữ được vài nét
cổ xưa theo kiểu nhà thấp để trời thêm cao…Lắng mình trong bình an để giao thoa
cùng quá khứ.
-Chúng tôi thả bước trên con đường
chính mà dân Phố thường gọi là đường Chùa Cầu. Xưa là con đường duy nhất vào
Cảng. Quán xá buôn bán tấp nập du khách nước ngoài nhưng nhất tề từ tốn lặng
lẽ. Hai cái bát quái trên cửa ra vào mỗi căn nhà cổ như đang dõi bước chân hiện
tại…căn chừng với sự yểm trợ của hàng đèn lồng bao năm truyền thống. Phố huyên
náo nhưng nhẹ nhàng như nghe đâu đây tiếng ngựa xe, ghe thuyền bến cảng ngày
xưa thì thầm bậc thềm vách cửa đã ẩn vào trong rêu và còn những ngọn đèn lồng
dưới mái hiên Hoài phố đêm đêm thắp lên kỷ niệm một thời vang bóng.
-Cao lầu…món ăn chỉ có giếng nước
Hội an mới làm nên thứ bánh đặc trưng xứ Hội.
Quán vẫn nhà thấp cửa gỗ tường vôi Tâm Tiến nói “Hải tới đây…đi ăn món
đặc sản cho biết…”Tôi ăn và vận dụng cảm giác tận hưởng hương vị quà Phố…thanh
đạm, ngon nhẹ nhàng, ngọt thanh thoát và thơm đồng nội. Cuối tô tôi không ngần
ngại húp tụt thứ nước chan hấp dẫn và ít ỏi đã hòa tan vị tuyệt vời. Bạn tôi
bảo “làm tô nữa chăng?” tôi gật đầu. Ngoài kia nắng cuối Hè thêm mầu cho Phượng
vĩ nở rộ và tôi định bụng sẽ chụp một bức ảnh cùng Phượng vĩ đất Phố.
-Anh Thương về làm đám giỗ Mẹ cũng đã
xong…Điện thoại hẹn ngày mai sẽ có mặt tại Đànẵng. Sáng nay Anh Thái và Đức con
đưa tôi lên tận Nam
ô theo con đường mới sát biển và để thăm vài đồng đội đã khuất. Thành phố đang
trên đà phát triển với những công trình được thực hiện nhất là trong lãnh vực
cầu đường như là miếng mồi để chào mời quốc tế. Đất và biển được cắt ra để
bán…tạo một vùng Resort san sát tráng lệ, xa hoa mà người dân có nằm mơ cũng
chẳng được hưởng! Khu ấy đã trở thành
những “Tòa đại sứ” bất khả xâm phạm. Tôi cố tìm lại những nét xưa nhưng cũng
chỉ lờ mờ…có chăng Đài ra da trên đỉnh Sơn chà, cây cầu Trịnh minh Thế và khu
Ngã năm là còn dễ dàng nhận ra…Trường Sao mai bị san phẳng và biến mất. Nắng
cũng đã chếch về mạn núi Phước tường chúng tôi đi thăm vài người bạn đã khuất
và trước bàn thờ cùng nén hương nghi ngút…Bạn ơi. Ôi thời gian…giờ đây đầu đã
bạc…chắc bạn cũng như tôi đều có một vết thương lòng…chẳng bao giờ lành.
-Bữa tiệc do anh em Đànẵng khoản đãi
để gọi là “Chia tay hẹn gặp lại” được tổ chức tại bãi biển Mỹ khê (Holiday
beach). Trời nhạt nắng vì chiều đang xuống. Gió biển lồng lồng thơm mùi…biển
mặn. Anh Thương đang nói lời cám ơn anh em…tình chiến hữu vụt vút lên cao trong
những câu nói nhắc lại chuyện xưa…ôn tập kỷ niệm…CCN và những vùng biên giới hành
quân…Ly bia đầu tiên đã được rót ở đầu bàn để mời các bạn đã khuất và tiếng “dô
dô…” vang lên khi ngoài kia mặt trời đã lặn…Hình như biển đang có một lớp sương
mù nhẹ. Không khí thân mật…xôn xao chuyện vui, buồn đời lính…kể cho nhau
nghe…rồi đắc ý và sung sướng tận mây. Gió biển vào đêm đem theo cái lạnh nhưng
lòng tôi ấm. Thời gian cứ trôi mà gần như chúng tôi đang quên mất nó. Ngoài kia
đường vắng khách và đêm về mịt mùng. Đã có những giọng nói lạc điệu hơi men kèm
theo đâu đây tiếng cười sảng khoái và ai đó quơ chân dưới bàn làm kinh động
những vỏ bia lao xao cùng trên bàn ngả nghiêng ly đĩa. Anh Thương đề nghị chầu
cà phê như muốn kéo dài giây phút tuyệt vời…Huynh đệ chi binh. Tâm Tiến
đến bên tôi “Tiến phải về Hội an mai còn đi làm…Hải nhớ giữ gìn sức
khỏe.” một cái ôm chặt lấy nhau và tôi thì thầm…”Tiến cũng vậy giữ sức khỏe…hẹn
gặp lại”
-Bờ sông Hàn đã vắng người. Đêm về
khuya gió hắt từ sông cơn lành lạnh. Quán cà phê thưa khách kéo theo cái không
khí êm đềm trầm lắng nhưng chẳng làm nguôi câu chuyện …vụt ra từ ký ức. Mà lại
bắt đầu khi những ly cà phê được đưa ra. Mùi thơm cà phê thoang thoảng quyến
rũ. Tôi như kẻ du tử lang thang hãy để lòng mình bay cao hơn nữa để nhờ bè bạn
gặp lại những phương trời xưa cũ. Dấu giầy và bước chân tít xa tận biên cương
của thời gian trai trẻ ngút trời hào khí… của tuổi thanh xuân dạt dào lý tưởng.
Và có những kỷ niệm cùng CCN một thời chinh chiến.
-Chúng tôi đến Huế vào một ngày Hè
nắng dữ. Anh Thương chợt dừng chân ghé mua hai chiếc bắp ngô luộc còn bốc
khói…vội bóc rồi ngấu nghiến từng hàng và hít hà mùi thơm đồng cỏ nội. Anh Chơn
ra đón chúng tôi về khách sạn.
-Huế ở vào ngày không lễ hội, huyên
náo mà khẽ khàng. Quán Tẹo vẫn đông khách dù đã vào giấc quá trưa. Quả thật tôi
đang lạc vào một nơi xa lạ…cái gì cũng Huế và cái giọng bắc như tôi hoàn toàn
lạc lõng trong bầu khí cô đặc nhiều thế kỷ. Năm 1969 tôi đã đến Huế với một
người bạn. Thủa đầu đời còn trai trẻ nhưng nay sấp sỉ tuổi “cổ lai hy…” Thành
phố với những con đường rộng bóng cây râm mát. Quán xá bán buôn tấp nập nhưng
mọi sinh hoạt đều vẻ từ tốn đến lặng lẽ. Chúng tôi rảo bước trên con đường dẫn
vào cầu Trường tiền…ngoắc hai chiếc xích lô qua cầu rồi cùng nhau dạo Kinh
thành bắt đầu từ cửa Thượng tứ…Tôi nghe thời gian mấy trăm năm chợt về và nghe
hơi thở của người xưa vọng lại…nghe từ xa xăm tiếng ngựa xe lọc cọc, tiếng thì
thầm từ vách đá rêu phong, tiếng gầm gừ khói lửa của những khẩu thần công trấn
giữ kinh thành…Đại tướng quân. Oai vũ một thời. Xa xa những ngôi nhà cũ thâm
nghiêm phô mái rong rêu. Không gian tĩnh lặng trong nắng chiều siên khoai hàng
cây lá và thanh thản dấu tích xưa cố nối hiện tại.
-Đêm như có mùi hương…bước xuống con đò
từ bến gần khách sạn Morin. Anh Thương nói “Hải đi dạo trên sông một vòng cho
biết…đêm sông Hương” Ngồi trên đò tôi như bước vào cánh cửa quá khứ…Thủa ấy lần
đầu tôi đến Huế…gả trai trẻ thi hỏng phải động viên và gia nhập quân đội. Người
đồng đội thân nhất lúc bấy giờ là Toán trưởng Thiếu úy Bửu Chính đưa tôi về Huế
trong năm ngày phép thưởng hành quân. Huế năm ấy đã bình ổn sau Tết Mậu thân
với những giải khăn sô cùng khắp. Mà vẫn như cha ông luôn mở rộng vòng tay đón
khách. Thành phố đẹp nổi tiếng, nên thơ mà còn là vùng văn hóa rất dồi dào…Cá
tính Huế được thể hiện rất rõ qua giọng nói, câu hát ru, âm nhạc, kiến trúc
Thành nội, lăng tẩm, đình Chùa…văn hóa thị thành hài hòa cùng văn hóa nông
thôn. Một vùng đất mà kể từ Vua đến thứ dân đều biết làm thơ và dĩ nhiên giọng
nói của họ cũng đã là thơ…
-Một chiếc thuyền rồng neo đậu trên sông.
Ngày nay Huế đang trên đường hiện đại hóa…nhà hàng, khách sạn mọc lên khá
nhiều. Trước năm 1975 Huế chỉ có khách sạn Morin và nhà ngủ Khê ký…bù lại Huế
có hàng trăm khách sạn nổi…đó là những chiếc đò trang bị phòng ngủ rất thơ mộng
để lênh đênh trên sông Hương hưởng đủ mọi thú vui tùy sở thích. Ngày nay chuyện
ngủ đò chỉ là chuyện ngày xưa, ban đêm khách xuống thuyền rồng là để nghe ca
Huế,,,hết buổi lại lên bờ chứ không ngủ trên sông như ngày xưa. Hình ảnh ngày
xưa lại hiện về…
-Đò đã qua khỏi chùa Thiên mụ. Ánh
trăng gần tròn tỏa sáng trong cơn mây…Bửu Chính cùng hai ả bạn học đang sửa
soạn yên vị. Tôi rất lạ với bàn tiệc kiểu này nên chỉ biết ngồi yên nghe theo
và hưởng những gì sắp đến. Ông chủ đò đã mang ra rượu thịt mời khách trong
tiếng cười “kỳ nữ” đon đả chào mời. Gió mát thoang thoảng và không gian bất
chợt yên tĩnh…Nơi đây thật sự đã xa rời những tạp âm của đám tục khách…Để quyện
quanh giờ chỉ còn tiếng tỳ, tiếng nhị, tiếng ca Nam bình, Nam ai, Tứ đại…Cài
hồn Huế đan chen trong tiếng sóng nước vỗ về thoảng thơm mùi Thạch sương bồ
vùng thượng lưu…Nguồn Bồ, Bạch mã vẫn chảy về sông Hương và âm thầm, dùng dằng
suôi cửa Thuận…Hiện tại sực tỉnh…
-Đò vừa đi qua một chiếc thuyền rồng
trên sông. Tôi đưa người qua cửa soi bóng mình mập mờ gợn nước…để quá khứ lắng
sâu, khắc khoải…Nòng hổi niếm xưa…ngậm ngùi vuốt mái tóc mình đã bạc.
-Tiếng chuông Thiên mụ canh gà Thọ
xương.
Làm gì có địa danh Thọ xương ở
Huế…Anh Thương khẳng định như vậy mà nói rằng Thọ xương chỉ có ở ngoại thành Hà
nội. Cuộc tranh cãi khi tôi nói rằng đã đọc ở đâu đó…Huế có một đồi tên Thọ
xương từ hồi xa xưa nhưng ba người trên taxi đều là người gốc Huế bác bỏ…nan
địch quần hồ! tôi đành chịu thua cười ha
hả. Trước mặt là góc tường thành của kinh đô…tôi lại sống trong quá khứ kề bên
đương đại. Nhìn vọng gác trên thành…à hình như người gác vừa cúi xuống nhưng
không tất cả đều im lìm phô dấu thời gian và làm nên linh hồn, thần thái của
một kinh đô. Buổi chiều dạo phố ngang qua một gánh tầu hũ anh Thương kéo tôi xà
vào nói là làm vài bát…cái bát bé tí nóng hổi thêm mùi gừng thơm lựng khiến tôi
thích thú miệng húp mũi ngửi và cảm thấy sảng khoái tận hưởng hương vị Phố…Xưa
cũ đang níu cái hiện đại.
-Xe vừa qua Phú lương Anh Thương bảo
sắp đến rồi…Nhìn ra Trại FOB 1 nay cũng chỉ còn là miếng đất cỏ mọc hoang…Nơi
đây và phi trường Phú bài khi xưa thường xuất phát những chuyến hành quân Biệt
kích nhắm vào đất Lào. Một bụi cỏ lau bên góc phải theo gió như vẫy chào…thoáng
thấy những cánh tay của chiến hữu. Gió tự nhiên mang theo cái lạnh ban mai và
tôi nghe thoảng bên tai thanh âm vọng từ đồng đội từ chiến trường…Tận đáy lòng
hãy giữ nó trong cái quay cuồng của thời hiện đại với ánh mắt, bàn tay già nua
xiết bao kỷ niệm…Một thời chinh chiến.
Nguyễn Văn Hải CCN
Nguyễn Văn Hải CCN
No comments:
Post a Comment