Báo chí trong nước hôm 12/5/2020 đưa tin Bộ Công an cho
hay dự luật biểu tình chưa thể được trình lên Quốc hội vì "cần phải được nghiên cứu kỹ,
không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng".
45 năm qua dường như đảng Cộng sản Việt Nam chưa có được
một ngày hòa bình, trong tâm trí họ xung quanh lúc nào cũng có những "thế
lực thù địch" đe dọa sự tồn vong của thể chế.
Câu chuyện "hòa hợp hòa giải dân tộc" đã được
nói đến ngay từ khi Chiến tranh kết thúc năm 1975, nhưng đến nay nhà cầm quyền
vẫn đề cao lịch sử của “bên thắng cuộc” và tiếp tục coi mọi tiếng nói khác biệt
là thù địch.
Mục
tiêu của cuộc chiến là gì?
Ngày 30/4/2020, trên VTC News, Thượng tướng Thứ trưởng Bộ
Quốc Phòng, ông Nguyễn Chí Vịnh từ góc nhìn của “bên thắng cuộc” cho rằng “Hoà hợp,
hoà giải dân tộc đã thành công”, ông nhấn mạnh:
“…chiến
thắng này đem lại lợi ích cho cả người thắng lẫn kẻ thua và thời gian đã chứng
minh điều ấy.”
Sau 30/4/1975, miền Nam từ một xã hội đa nguyên gồm nhiều
sinh hoạt dân sự, có cả những sinh hoạt thân cộng sản, đã được miền Bắc “hợp”
nhất thành một mối, từ người công an khu vực, phường đội, quận đội, mọi cơ quan
hành chính miền Nam đều do người miền Bắc nắm giữ hoặc chỉ đạo.
Những người miền Nam thân cộng hay theo cộng sản là những
người đầu tiên bất “hòa” với việc “thống nhất” theo mô hình lạc hậu của miền Bắc.
Những người này tin rằng theo Hiệp định Paris miền Nam sẽ
có vài năm chuyển tiếp, người miền Nam được hòa giải với nhau và sau đó sẽ được
quyền tự quyết dân tộc.
Mới đây, nhân dịp 30/4/2020, câu chuyện của Bác sĩ Bùi Quỳnh
Hoa con gái Đại tá Quân đội Bắc Việt Bùi Văn Tùng kể trên BBC tiếng Việt có những
điểm đáng được quan tâm.
Ông Bùi Văn Tùng là Trung Tá Chính ủy Lữ đoàn xe tăng
203, cấp chỉ huy cao nhất vào tiếp thu Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975, ông Tùng đã
soạn Tuyên Bố Đầu Hàng cho Đại Tướng Dương Văn Minh và chính ông đã đọc lời Chấp
Nhận Đầu Hàng trên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Trong vai trò Chính ủy trước đây ông Tùng phải tuyên
truyền để bộ đội Bắc Việt “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, nhưng theo lời
kể của Bác sĩ Quỳnh Hoa cho đến chết ông vẫn hỏi bà: "Tại sao Mỹ lại đánh nhau với
mình thế hả con?"
Rõ ràng cho đến cuối đời ông Bùi Văn Tùng vẫn chưa có được
một lời giải thích thỏa đáng nguyên nhân của cuộc chiến tại Việt Nam, lịch sử với
cộng sản chỉ để tuyên truyền nên không thể thuyết phục ngay cả những chứng nhân
“bên thắng cuộc”.
Khi được mở lòng trên BBC tiếng Việt, Bác sĩ Bùi Quỳnh
Hoa đã hòa giải tâm lý bị đè nén bấy lâu nay, bà cũng đã hòa giải giúp cho cha
bà ông Bùi Văn Tùng.
Thân phận của Điệp viên Phạm Xuân Ẩn, của ký giả Lý
Chánh Chung và của nhiều nhân vật miền Nam khác cũng cần được cặn kẽ xem xét để
xem họ nghĩ gì về chiến thắng của Quân Đội Bắc Việt.
Khác với nhiều ỵ́ kiến cho rằng vấn đề hòa giải đã xong,
hoặc chỉ là chuyện của chính quyền với dân, ở Việt Nam dường như chưa có những
cuộc nghiên cứu để tìm hiểu tâm lý của những bộ đội cộng sản trong chiến tranh
Việt Nam để xem mức độ “hòa giải tâm lý” của binh sĩ bên thắng cuộc.
Bởi thế không ai có thể kết luận: “hòa hợp và hòa giải
đã thành công” đối với bên thắng cuộc.
Bên
thua cuộc thì sao?
Còn người miền Nam thuộc “bên thua cuộc” thì khăn gói 10
ngày “học tập cải tạo”, có người 17 năm mới rời khỏi nhà tù, nhiều người chết trong
tù.
Một số nhân viên miền Nam cấp thấp không bị tù, được giữ
lại làm việc ít lâu, nhưng khi người miền Bắc đã nắm được chuyên môn, thì họ bị
sa thải vì là người của chế độ cũ.
Nền tảng chính trị, kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục,
xã hội, báo chí, văn nghệ, nghệ thuật, của miền Nam bị xóa bỏ để xây dựng xã hội
mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Những trận đánh tư sản, đánh văn hóa, cưỡng bức dân đi
kinh tế mới, cưỡng bức dân vào hợp tác xã, ngăn sông cách chợ, phân biệt đối xử
giữa người cũ với người mới đã buộc người miền Nam phải bỏ nước ra đi, nhiều
người chết trên đường tìm tự do.
Đến nay tại Việt Nam từ giáo dục, báo chí, văn nghệ, nghệ
thuật đến cuộc sống hằng ngày, mọi thứ vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm của “cách mạng”,
của “chiến thắng 30/4/1975”, của người thắng kẻ thua.
Những người miền Nam thuộc “bên thua cuộc” còn ở lại Việt
Nam, 45 năm qua chưa một ngày được đối xử công bằng, thậm chí đến đời con, đời
cháu của họ vẫn bị đối xử kỳ thị vì cha ông đã phục vụ cho miền Nam tự do.
Những người sống ở nước ngoài và con cháu họ vẫn bị kỳ
thị về chế độ thị thực, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam nếu nhà cầm quyền cho họ
vào "sổ đen".
Chấm dứt chiến tranh bộ máy cầm quyền thay vì xóa bỏ
xung đột để tiến đến hòa hợp và hòa giải dân tộc thực sự, thì hố cách biệt giữa
những người Việt với nhau càng sâu hơn, một lịch sử có “hợp” nhưng không có “hòa”.
Không
“hòa” không “giải”
Không có “hòa” thì không thể nào giải quyết được những
xung đột về văn hóa, về niềm tin, về chính trị, về lịch sử, giữa đảng Cộng sản
và những người thuộc “bên thua cuộc”.
Người miền Nam thuộc “bên thua cuộc” vẫn luyến tiếc và giữ
niềm tin vững mạnh là họ sẽ phục hồi lại văn hóa, lại giáo dục, lại kinh tế, lại
công bằng, tự do và dân chủ cho Việt Nam.
Ý tưởng này vẫn tồn tại và phát triển trong sinh hoạt của
những người miền Nam yêu chuộng tự do trong và ngoài nước.
Cùng lúc, những người Việt ra hải ngoại du lịch và du học,
những người Việt về nước du lịch hay làm việc, và không gian mạng toàn cầu, đã tạo
cơ hội người Việt trong và ngoài nước, người Việt thuộc nhiều thế hệ khác nhau,
người Việt thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau, người Việt thuộc nhiều khuynh hướng
khác nhau, cùng hòa hợp với nhau, từng bước hòa giải, xóa bỏ những mâu thuẫn,
những xung đột cùng hướng về tương lai.
Mặc dù không còn đất nước, không còn chính phủ nhưng bài
học “hợp” nhưng không “hòa” không “giải”, không cho phép người Việt hải ngoại
tái phạm sai lầm đã xảy ra, nên không hề có chuyện người Việt tự do có nhu cầu
phải đối thoại với giới chức cộng sản.
Sau 45 năm người Việt hải ngoại không còn suy nghĩ thắng
thua hay không có nhu cầu phải hòa hợp hay hòa giải với nhà cầm quyền Cộng sản
Việt Nam.
Các
xung khắc mới…
Miền Bắc sau 30/4/1975 lúc đầu đời sống kinh tế có phần
tốt hơn, nhưng về lâu dài cả hai miền Bắc Nam đều cùng chung số phận và sau 45
năm “thống nhất”, xung đột đã từng bước chuyển sang những hình thức mới.
Xung đột giữa người cầm quyền với người bị trị, với những
nông dân mất đất, xung đột giữa người dân làm không đủ ăn với những nhóm tư bản
thân hữu phân chia lợi ích quốc gia, xung đột giữa những trí thức ưu tư về vận
mệnh quốc gia và những người kiên định con đường cộng sản, và nhiều xung đột
khác do thể chế chính trị gây ra.
Những xung đột này thay vì được giải quyết một cách dân
chủ trong vòng luật pháp, nhà cầm quyền cộng sản lại khép cho những người bị
thua thiệt là “thế lực thù địch”, rồi thẳng tay đàn áp, bắt bớ, bỏ tù.
45 năm qua dường như đảng Cộng sản chưa có được một ngày
hòa bình, chung quanh họ lúc nào cũng có những “thế lực thù địch” đe dọa sự tồn
vong của thể chế Cộng sản.
Trở lại với cách suy nghĩ ông Nguyễn Chí Vịnh cho thấy
những người cộng sản 45 năm nay vẫn không hề thay đổi, vẫn còn nghĩ thắng thua,
chưa nghĩ đến chuyện “hòa” thì đừng mong nghĩ đến chuyện “giải” để có được kết
luận “Hoà hợp, hoà giải dân tộc đã thành công”.
Bài
học từ 30/4/1975
Ở thời điểm 30/4/1975 mấy ai nghĩ rằng cho đến năm 2020,
nghĩa là 45 năm trôi qua, việc hoà hợp và hoà giải dân tộc vẫn chưa được nhà cầm
quyền cộng sản thực hiện.
Hai năm trước mấy ai nghĩ đến chiến tranh thương mãi
Trung Mỹ, chỉ vài tháng trước mấy ai nghĩ đại dịch viêm phổi xảy ra khắp toàn cầu,
và mấy ai nghĩ đến việc Trung cộng đang phải đối đầu với suy thoái kinh tế, với
nạn thất nghiệp, với việc thay đổi cấu trúc kinh tế toàn cầu và rất có thể Trung
cộng sẽ phải thay đổi chính trị: “thay đổi không thì chết”.
Môi Bắc Kinh hở, thì răng Hà Nội lạnh, nhiều thay đổi ắt
sẽ xảy ra tại Việt Nam trong những ngày sắp tới.
Bài học của 30/4/1975 cho thấy hòa hợp và hòa giải dân tộc
không thể xảy ra trong thể chế độc tài, đảng trị, mà chỉ có thể có nhờ môi trường
dân chủ, đa nguyên, đa đảng với bầu cử thực sự tự do.
Việc hoãn lại luật biểu tình cho thấy Hà Nội vẫn xem
dân là "kẻ thù", chứng tỏ trong suốt 45 năm qua họ đã thất bại không
hòa giải được như mong muốn của người dân hai miền Bắc Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại lợi
No comments:
Post a Comment