Cộng
Sản là thảm họa của cả miền Nam kể từ dạo ấy và đối với riêng anh việc
bị đuổi ra khỏi trường Văn Khoa là một biến cố đau buồn nhất trong đời,
nó thường xuyên ám ảnh đến cả giấc ngủ đầy ác mộng của anh sau này.
Anh
là bạn thân của ông Thầy dạy tôi thời Trung học, hai người bạn thất
nghiệp đi lang thang và ghé vào căn phòng trọ của cô học trò nhỏ. Cả
thầy lẫn trò đều xác xơ đến tội nghiệp. Tôi loay hoay nấu cơm bằng cái
nồi nhỏ xíu với chút rau luộc và cái trứng vịt dầm nước mắm. Buổi cơm
đạm bạc nhưng chân tình. Tôi ấm ức kể cho Thầy nghe những bực bội trong
cuộc sống mới mà tôi phải chịu đựng, những bất mãn hậm hực trong chế độ
XHCN nói một đàng làm một nẻo.
Tức
mà không biết nói với ai, tôi viết nhật ký và in roneo cả xấp, không
biết để làm gì nữa nhưng chắc cũng đỡ buồn đôi chút. Thời buổi này biết
tin ai bây giờ ngoài Thầy, tôi không có dịp học với anh dù nửa chữ,
nhưng tôi kính anh như thầy mình. Tôi đưa bản nháp cuốn nhật ký cho hai
ông, coi như có người để chia sẻ tâm sự.
Năm
1978, cuốn nhật ký được một người thân lén chuyển qua Mỹ, và được in
làm nhiều kỳ trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và
đầu năm 1979 tôi vào tù, tôi từng nghĩ chuyện tới đó chấm hết.
Thời
gian như cuồng phong phẩn nộ cuốn phăng mọi thứ. Mất hút trong mưa
giông là những dề lục bình tuổi thơ mơ mộng của bạn bè tôi, dật dờ rác
rưởi trong chế độ mà “đôi dép râu làm sầu tuổi trẻ, nón tai bèo dẫm nát
mộng đời trai”, gió đưa gió đẩy không về rẫy Kinh Tế Mới thì cũng ra
khơi vượt biển tìm Tự Do. Thời điểm sôi bỏng lúc đó ai cũng muốn đi, dù
biết chắc rủi ro phía trước.
Cuộc
sống bức bách trong thời gian đầu khiến anh không thể chịu đựng nổi,
anh dẫn vợ con ra khơi trên chiếc ghe chông chênh túm húm phó thác tánh
mạng cho Trời. Tôi chọn sự ở lại để cùng chồng mưu toan “bẻ gậy chống
trời”. Mọi việc không thành, cả nhà bị bắt, chồng tôi bị tuyên án Tử
Hình, tôi chôn tuổi trẻ của mình hơn 10 năm trong lao tù Cộng Sản. Thằng
con trai mới hơn một tuổi cũng bị vạ lây vướng vòng lao lý đến độ tật
nguyền. Câu chuyện đau thương và trải dài biết bao khốn khổ bất hạnh
trong suốt những năm tháng buồn hiu đó.
Cuối
cùng thì tôi cũng ra tù, con trai tôi được một tổ chức nhân đạo bên
Thụy Sĩ mang ra khỏi trại giam trước đó vài năm. Sự giải thoát chậm trễ
đã khiến nó tàn tật suốt đời, chính điều này đã làm tôi đau đớn ân hận
mãi không nguôi.
Phần
anh, sau chuyến vượt biển thành công, chiếc ghe mong manh tấp vô một
đảo nào đó bên Indo chờ ngày qua Mỹ định cư. Giống như định mệnh được
báo trước, những ngày trong trại tỵ nạn, tạp chí Việt Nam Hải Ngoại tình
cờ lọt vào tay anh và những đoạn nhật ký rời rạc trong đó khiến anh
thảng thốt vì anh đã biết tác giả là ai, anh đã từng đọc nó bằng bản
roneo nhòe mực, và anh đã đốt nó trước khi xuống tàu ra đi. Anh chọn sự
bỏ cuộc và cô học trò chọn sự ở lại để đối đầu với cả một chế độ. Sau
này, anh thường nói với các bạn là tuổi trẻ của cô ta thật dũng cảm, anh
đã không làm được điều đó. Có cái gì như ân hận ray rứt khiến anh bồn
chồn trong bụng.
Vài
năm sau, khi cuộc sống tạm ổn định anh gọi về Sài gòn gặp người bạn cũ
để hỏi thăm tin tức về "con nhỏ năm xưa". Thầy tôi cũng chỉ có thể nói
lại với anh điều ông đã nghe loáng thoáng trong đám học trò “...hình
như nó bị bắt và chết trong tù.”
Nhưng
bầm dập tù đày không làm tôi gục ngã. Tôi sống sót để trở về với bao
tang thương mất mát không cách gì bù đắp. Ra trại, trở lại cuộc sống
bình thường nhưng không yên ổn, cơm áo mưu sinh vất vả, thường xuyên đối
mặt với những kỳ thị hoạnh họe của chính quyền địa phương, với cái lý
lịch tăm tối tù tội trong quá khứ khiến tôi thật sự mệt mỏi.
Trong
một lần đi họp trường xưa bạn cũ, tôi đến chào Thầy. Ông ngỡ ngàng nhận
ra “con nhỏ học trò” thuở nào và buột miệng, “Em còn sống hả Ánh?” Và
ông hỏi, “Em còn nhớ Thầy S không? Nó cũng hay về thăm tôi. Có lần nó
hỏi thăm em, tôi nói em chết rồi, nó buồn xo...”
Mấy
chục năm qua rồi, gặp anh một lần như thoáng gió, có gì đâu mà nhớ. Tôi
thời đó hừng hực tuổi hai mươi, còn anh có vợ 4 con bộn bề trăm nỗi.
Với anh, cái buồn xo nếu có chắc cũng chỉ là tội nghiệp đứa học trò lận
đận mà thôi!
Trong
mùa hè nào đó, tôi nhận được cú phone lạ. “Thầy S. đây, con có nhớ thầy
không?” Phản ứng rất tự nhiên tôi “dạ - không” gọn lỏn. Bên kia đầu dây
ngập ngừng một chút, “Ờ hôm nào Thầy trò mình gặp nhau nhé”.
Cũng
không có gì bất ngờ luống cuống. Hai ông thầy lại đến thăm cô học trò
đã già hơn xưa sau hai mươi mấy năm không liên lạc. Lại thêm một bữa cơm
thân tình nhưng tươm tất hơn trước, lại những chuyện kể đứt khúc như
cuốn phim buồn, thật tình tôi muốn quên đi quá khứ đau thương.
Ra
về anh ghi vội cho tôi địa chỉ eMail để “Thầy trò liên lạc nhau,” và
tôi vẫn kính cẩn “Thưa Thầy” mặc dù tới bấy giờ Thầy vẫn chưa dạy tôi
cách dùng email để viết... thư tình.
Thời
đó, có cái computer trong nhà là một mơ ước của tôi. Anh đâu biết mỗi
lần trả lời email của anh, tôi phải chạy hàng mấy cây số mới tới chỗ
dịch vụ Internet, loay hoay tự học mổ cò từng chữ.
Rồi
thư qua thư lại, lúc đầu chỉ là những chia sẻ trong cuộc sống ở hai bờ
đại dương xa lắc. Anh còn đi dạy, lũ học trò tiểu học dễ thương. Các con
đã lớn có cuộc sống riêng, vợ anh ly dị đã lâu. Anh ở một mình trong
căn nhà rộng vắng vào ra cô đơn lặng lẽ, cơm nước tự nấu bữa sống bữa
chín.
Còn
tôi làm công nhân trong một xưởng gỗ tư nhân, mỗi ngày đạp xe hì hục
trên xa lộ nắng cháy mà không biết tai nạn chết chóc xảy ra lúc nào.
Không có bằng Đại Học thì chỉ làm công nhân suốt đời, tôi nghĩ vậy mà cố
gắng ghi tên học lại. Rồi mấy năm đèn sách vất vả cũng qua đi. Khi anh
gặp tôi thì mọi việc có vẻ như ổn định, tôi đã tự đứng dậy được trên đôi
chân của mình.
Email
qua lại cả hai năm trời, anh gọi phone cho tôi thường xuyên hơn, thân
thiết hơn và không biết từ chữ “Thầy” chuyển qua chữ “Anh” lúc nào mà tự
nhiên chúng tôi không còn thấy khoảng cách hàng mươi ngàn cây số giữa
Mỹ và Sàigòn xa xôi mút chỉ nữa, những lá thư tình chất đầy ngăn kéo đã
kết nối đôi bờ.
Mùa
hè 2004, Anh quyết định bay về nói chuyện kết hôn. Má tôi im lặng một
hồi mới nói “Già rồi ở vậy cho rảnh.” Nhưng nói là nói vậy thôi, Má sợ
tôi bước thêm bước nữa rồi khổ. Nhưng Má ơi, tử vi nói con hết cơn bĩ
cực rồi. Tôi chợt nhìn xuống chân “ông rể” tương lai của Má, ai đời buổi
ra mắt nhà vợ đầu tiên mà anh mang vớ chiếc xanh chiếc xám bê bối thấy
mà thương, mới biết anh chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng đã hóa
thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt.
Vậy
đó, tôi làm cô dâu ở tuổi 50, trong chiếc áo dài đơn sơ giản dị, bạn bè
hai bên chừng vài bàn, buổi tiệc nhỏ đầy ấm cúng, ai cũng chúc mừng cho
hạnh phúc muộn màng nhưng rạng rỡ của tôi, lối xóm bàn tán “cô ta hên
ghê có chồng Việt kiều về cưới”. Anh nắm tay tôi ấm áp dỗ dành, tôi nghĩ
mình thật hạnh phúc và bình yên khi có anh bên cạnh.
Sau
ngày cưới, thấy không thể nấn ná trong cái xã hội đầy rẫy sự bất an
ngang ngược từng ngày, anh quyết định mang tôi đi xa hơn về miền đất
hứa...
Ngày
tôi lên máy bay rời Sàigòn cũng vào mùa hè, tháng 5 và những chùm
phượng đỏ rưng rưng ướt đẫm trong cơn mưa đầu mùa. Tôi biết mình đã mất
Quê Hương từ cái ngày 30/4/1975 đáng nguyền rủa ấy, nhưng lần ra đi này
mới thật sự thấy thấm nỗi chia ly. Biết bao người đã bỏ nước ra đi và
chết tức tưởi trên biển cả, còn tôi may mắn hơn triệu triệu người khi
vượt biển trên chuyến bay American Airlines, để đến một nơi mà mình biết
chắc là có Tự Do Hạnh Phúc thật sự chứ không phải thứ Tự do được rêu
rao bịp bợm gian trá trong cái gọi là CNXH.
Qua
rồi những bão tố gian nan, những cay nghiệt khốn khổ trong cuộc sống tù
đày của ba mươi năm trước. Tôi khép lại quá khứ nhọc nhằn, lau khô
những giọt nước mắt bi thảm để nắm tay anh đứng dậy. Cuộc sống vốn ngắn
ngủi cho những ai bi quan, tôi nghĩ mình đang hướng về phía mặt trời.
Như
cuốn tiểu thuyết có hậu ở trang cuối, tôi cám ơn anh đã viết Tình Yêu
bằng chữ hoa trân trọng cho những năm tháng còn lại của chúng tôi. Hạnh
Phúc thật sự chỉ có trong trái tim rộng lượng, chân tình.
Cám
ơn anh, cám ơn nước Mỹ đã dung chứa thêm một người tị nạn khốn khổ như
tôi. Chào một ngày mới bắt đầu trên quê hương mà bao người mơ ước được
đặt chân tới. “America Dream.”
Ngọc Ánh
No comments:
Post a Comment