Trường Sơn Lê Xuân
Nhị
John Wells ngồi
sau bàn giấy, hai chân gác lỏng lẻo trên mặt bàn, mười ngón tay xoay chuyển thật
điêu luyện để vấn một điếu thuốc mới. Cảm
thấy vừa ý, nó đưa lên môi, liếm một cái rồi dán mảnh giấy lại, đưa ra nhìn vào
tác phẩm của mình. Mẹ, điếu thuốc coi
tròn trịa và dễ thương ra phết, cuốn như thế mới gọi là cuốn. Tất cả những gì John làm đều phải đẹp, từ bắn
súng cho tới làm tình, cho tới chuyện vấn điếu thuốc lá. Nó đưa điếu thuốc lên miệng, dùng cặp môi và
lưỡi xoay tròn nó một vòng rồi thò tay quẹt một cây diêm vào cái bàn giấy nghe
đến xoẹt một phát… Ngọn lửa cây diêm lóe lên, ánh sáng vàng nhẹ, lửa cháy xèo
xèo nghe ấm cúng, nhẹ nhàng… Nhưng John
chưa kịp mồi điếu thuốc thì có tiếng gõ cửa của văn phòng nó…
Thằng cao bồi nhăn
mặt lại, lắc đầu, có vẻ bực mình lắm. Mẹ
kiếp, thế là chắc phải phí mất đi một cây diêm…
Thực ra thì chẳng
ai cấm nó tiếp tục mồi lửa điếu thuốc vừa mới cuốn rất công phu, rất vừa ý. Lý do là, nó không muốn mình vừa châm lửa điếu
thuốc thì bỗng nhìn thấy một thằng cao bồi xuất hiện nơi cửa văn phòng mình với
một họng súng đen thùi lùi trong tay.
Đang mồi thuốc, làm sao trở tay cho kịp?
Chết là cái chắc. Hoặc giả, nếu
không chết thì cũng trầy vi tróc vẩy, tùy theo cái phản ứng của mình, tùy theo tài
nghệ của thằng khốn, và cũng tùy thuộc vào … Thiên Chúa nữa chứ. Nếu Chúa muốn mình chết, mình đành phải chết
mà thôi.
Nhưng một tay súng
giang hồ khét tiếng như John Wells không phải là hạng người có thể để cho ai ép
nó vào cái thế bị bất ngờ, bị rút súng chậm.
Bắn chậm thì phải chết thôi, cái luật giang hồ này ở tiểu bang
California trong cái thời kỳ mà thiên hạ từ khắp nước Mỹ đang đổ xô về San
Francisco này để đi tìm vàng, ai mà chẳng biết…
Và cũng bởi cái luật
bắn chậm thì chết này, nó đã tiễn đưa không biết bao nhiêu thằng bắn chậm hơn
nó qua bên kia thế giới. Không, nói thế
cũng chưa đúng hoàn toàn. Bởi vì cũng có
một vài thằng bắn nhanh hơn nó đấy chứ, nhưng bắn nhanh mà bắn … trật thì chẳng
thà đừng bắn. Chỉ khổ tốn đạn, mất thì
giờ vô ích. John chỉ cần một phát. Bàn tay của nó khi đã rút súng ra thì chỉ cần
một phát mà thôi. Một phát chính xác
ngay giữa sống mũi, dưới hai cặp mắt một chút xíu. Trăm lần như một, không trật quả nào…
Cái thích thú của
John là sau khi để một phát vào giữa mũi con người ta, cái thằng bị bắn hồn lìa
khỏi xác mà vẫn chưa biết mình chết. Cặp
mắt vẫn mở trợn trừng nhìn người bắn mình, ngơ ngơ ngáo ngáo, thân hình vẫn
chưa chịu đổ xuống cho rồi. Phải mất cỡ
vài giây đồng hồ sau, cái bị thịt mới lắc nhẹ một cái rồi từ từ đổ xuống. Đến lúc đó thì John đã đút súng vào bao trở lại
rồi. Và trăm lần như một, John luôn luôn
thò tay móc cái túi đựng thuốc lá từ túi áo trên ra, chuẩn bị gói một điếu thuốc
lá mới, khuôn mặt lạnh lùng không hề có chút cảm xúc. Không vui mà cũng chẳng buồn. Giữa hai đứa, phải có một thằng chết. Chúa gọi ai, người nấy dạ. Mừng là Chúa chưa thèm gọi tao…
Một điếu thuốc sau
khi nổ chết một mạng người luôn luôn là một điếu thuốc vấn khoái khẩu nhất của
John…
Bàn tay cẩm que
diêm của John liền ngưng lại, dĩ nhiên, sẵn sàng để rút súng nhưng chưa sẵn
sàng để bỏ rớt que diêm. Nó quay đầu,
đưa mắt liếc nhìn thằng đệ tử ruột đang ngồi xéo xéo cách bàn giấy của nó chừng
vài mét…
Thằng đệ tử ruột của
John Wells, tên Fang, người Tàu, là một chuyện lý thú khác…
Cách đây nhiều năm,
bọn Tàu được tuyển qua đây hàng chục ngàn người để làm đường sắt xe lửa xuyên lục
địa Hoa Kỳ, một công việc cực nhọc mà bọn Mỹ địa phương chẳng ai muốn làm. Chục năm sau, khi con đường sắt hoàn thành
năm 1869, thì bọn lao công da vàng này trở nên thất nghiệp, đi lang thang khắp
mọi nơi ở California cầu thực, làm đủ thứ việc, và từ từ trở thành những cái
gai trong con mắt bọn da trắng địa phương.
Thế là có chuyện…
Năm 1871, một cuộc
khủng bố chống người Tàu của bọn da trắng ở San Francisco trắng trợn nổi lên. Chúng nó họp thành nhiều nhóm, làm đủ trò man
rợ, từ giết chóc cho đến đốt nhà, hãm hiếp đàn bà con gái vân vân. Chúng nó chủ trương giết cho hết bọn da vàng
này, hoặc nếu giết không hết được thì đốt hết nhà cửa, tống cổ chúng nó về Tàu
trở lại.
Cuộc đời nó khốn nạn
như vậy đó. Khi người ta cần lao động rẻ
tiền thì người từ tuốt bên Tàu, bên Châu Phi cũng chở qua được. Nhưng khi hết cần, thì người ta tìm cách tống
khứ bọn này đi. Tống một cách hợp pháp
không được thì dùng những thủ đoạn dơ bẩn khác…
John Wells lúc ấy đang
làm chủ một tiệm mua vàng nhỏ ở San Francisco, và một buổi chiều, đi ngang
Chinatown, vô tình nhìn thấy 3 thằng thổ phỉ da trắng vừa đốt một tiệm chạp-phô
của một người Tàu. Đốt nhà xong, chúng
nó quây quần trước tiệm để ăn nhậu.
Lửa từ phía sau đã
bắt đầu nổi lên, nhưng chưa lớn lắm.
Hình như bị thiếu không khí…
Đối với John,
chúng mày muốn làm gì thì làm, muốn đốt nhà ai thì đốt, miễn là đừng … đốt nhà
tao, tao chẳng có gì phải lo lắng. John
cưỡi ngựa đi ngang qua, tính đi luôn nhưng nó chợt để ý đến một chuyện. Bọn khốn, chẳng những đốt nhà, chúng nó còn
ràng một đường dây xích trước nhà để khóa cửa ra với một mục đích rõ ràng, cho
chúng mày chết cháy trong nhà.
John không bất
bình vì chuyện đốt nhà, nhưng đốt mà lại còn khóa xích ở bên ngoài cho người
bên trong chết hết thì thật là dã man quá.
Nó càng thấy động lòng hơn nữa khi bắt đầu nghe được tiếng la hét cầu cứu
ở bên trong.
Không hiểu tại
sao, có thể vì còn chút máu nhân đạo trong người, John cảm thấy như thế này là
không được rồi. Thằng John, một khi nó
đã cảm thấy như thế này không được thì thế nào cũng có chuyện. Nó lắc đầu, kéo cương ngựa dừng lại trước tiệm.
Ba thằng thổ phỉ
da trắng, một thằng thủ một cây shotgun, hai thằng kia đeo súng ngắn, đang đứng
nói chuyện với nhau và chuyền tay nhau một chai rượu. Bọn khốn nạn hình như rất lấy làm thích
thú với cái trò chơi đốt nhà và giết người này.
Khi con ngựa của
John dừng bước, chúng nó đồng quay sang nhìn John, ý muốn hỏi chú mày muốn
gì, hoặc có muốn tham gia không?
Nhưng John
đã nói
như quát:
-Chúng mày đã đốt
nhà người ta, sao lại còn khóa cửa? Muốn
giết họ chăng?
Thằng cầm cây
shotgun quay lại chỉa họng súng hướng về người John:
-Không phải chuyện
của mày, cút đi. Tao đếm tới ba…
Như thế này lại
càng không được nữa rồi. John cười nhẹ,
lắc đầu:
-Chuyện đâu còn
đó, đâu
cần phải hồ đồ như vậy…
-Một …
John lại lắc đầu, lại cười nhẹ:
-Coi, bộ không nói
chuyện được với nhau sao mà phải ép nhau giữ
vậy?
-Hai…
Tiếng “hai” vừa
bung ra thì bàn tay John đã nhanh như chớp, móc con chó lửa trong bao ra và nổ
liền một phát vào ngay giữa mặt thằng cầm súng.
Cái miệng nó chưa kịp sủa tiếng “ba” thì đã bị phát đạn bay vào giữa sống
mũi, lóm vào một lỗ lớn hơn… cái mũi của nó.
Thằng khốn bung người lên, quằng cây shotgun xuống đất rồi gục xuống
theo…
John bắn nhanh đến
độ thằng kia gục xuống đất rồi mà hai thằng bạn đứng bên cánh còn chưa biết
chuyện gì xảy ra. Phải một giây đồng hồ
sau, hai thằng thổ phỉ mới tá hỏa tam tinh, biết bạn mình vừa bị bắn chết tươi.
Theo phản ứng tự
nhiên, chúng nó thò tay toan rút súng.
Nhưng John đã có sẵn súng trong rồi.
Nó quát lên như sấm:
-Muốn chết như thằng
khốn nạn kia hay sao bọn thổ phỉ khốn nạn này?
Hai thằng nghe tiếng
quát thì mới nhận ra là bọn mình đã hết có cơ hội rồi, liền giơ tay lên. John nói chậm rãi, từng tiếng một:
-Tao muốn tụi mày
mở sợi xích ra và mở cửa, cho hết mọi người trong nhà ra. Mau đi, không thì tao
cho ăn mỗi đứa một phát vào mũi…
Hai thằng ríu ríu
vâng lời, quay lui để mở sợi dây xích, nhưng tay chúng
nó run quá không mở được. Ở trong nhà tiếng
đập cửa thình thình, tiếng gào thét và tiếng khóc than bây giờ
nghe rất rõ ràng. Ít nhất của hai hoặc ba
người đàn ông và một đàn bà. Khói bắt đầu
phun ra từ những khe cửa dù chưa thấy lửa.
Chờ cho hai thằng
khốn này tháo được sợi xích ra thì ắt cả nhà bên trong sẽ chết hết. John tính toán thật mau. Nó nhìn kỹ và ước lượng được sợ xích không to
lắm, có thể cắt bằng đạn được nếu nó bắn thật chính xác.
John bỗng hét lên:
-Tụi bay lui ra…
Hai thằng không biết
gì, liền nhích ra sau. John bóp cò 2
phát, bắn bể tung một mắc xích. Mảnh sắt,
mảnh gỗ văng tùm lum, văng cả vào người hai thằng khốn. Nó lại hét:
-Kéo sợi xích ra…
Bây giờ thì hai thằng thổ phỉ dựt sợi dây xích ra được và mở cửa...
Cánh cửa mở tung, người phóng ra đầu tiên là một thằng bé người Tàu. Không biết có phải nó là thằng bé
hay không vì người Tàu vốn nhỏ con, nhưng cái đuôi tóc của nó đã bị bén lửa. Tất cả người đàn ông Tàu thời đó đều để tóc
có đuôi rất dài, nhiều khi gần chạm đất.
John lại hét
với thằng Tàu:
-Cái đuôi tóc của mày bị cháy, mau tới nhúng đầu mày vô thùng nước cho ngựa...
Nhưng thằng bé Tàu làm như hoặc không hiểu tiếng Mỹ, hoặc không nghe lời
John. Vừa chạy ra, nó đã
dừng bước rồi quay người lại, và trước sự ngạc nhiên của mọi người, nó
lại xông vào nhà trở lại...
John cảm thấy
thích thằng nhóc này. Thằng nào gan lì,
dám trở vào nhà, xông vào chỗ chết để cứu gia đình nó đây. Thật là một gương can đảm.
Nhưng chỉ vài giây đồng hồ sau, nó lại dội ngược trở ra, ho sặc sụa vì khói
và mặt mày lem luốt tơi tả. Rõ ràng là
nó muốn cứu người trong nhà nhưng không được.
Ngọn lửa ở cái đuôi tóc bây giờ lại cháy lên cao đã gần tới một nửa
cái đuôi của nó, leo gần tới cổ.
John hét, tay chỉa
họng súng rouleau về phía hai thằng thổ phỉ da trắng:
-ĐM tụi bay đốt
nhà người ta, tụi bay phải trở vào trong mà kéo người ta ra. Không thì tao giết hết.
Hai thằng thổ phỉ xửng người nhìn John.
Nhưng John không có thì giờ. Nó nổ
ngay một phát vào giữa ngực thằng đứng bên trái và hét lớn:
-ĐM tao không có thì giờ. Mày không
vào thì chết...
Thằng thổ phỉ bị đạn rú lên một tiếng, ngã ngữa ra sau...
John chỉa mũi súng về phía thằng còn lại.
Thằng này hú lên một tiếng lớn, quay đầu toan bỏ chạy, nhưng biết là chạy
không thoát, đành xoay người phóng vào căn nhà đang bốc khói lên nghi ngút.
John phóng xuống ngựa, đút súng vào bao, nhào tới ôm thằng Tàu đang đứng
khóc giữa sân, quẳng nó vào cái thùng nước dành cho ngựa uống ở trước tiệm. Rồi nó phóng người vào trong nhà, quên mất rằng
lửa đang bắt đầu phừng lên…
Thằng thổ phỉ kéo
được một cái xác đàn ông ra, đã chết vì khói.
John bước thêm vài bước nữa vào bên trong nhưng bị dội ngược không phải
vì lửa nhưng vì khói. Khói phủ kín người
nó, mặt mũi tóc tai đều dính khói và những tàn lửa nhỏ.
Đến một lúc nào
đó, John biết mình phải bỏ ra ngoài nếu không muốn chết. Đúng hơn, nó cảm thấy, mới đầu là ngạt thở,
nhưng lần lần, đầu óc trở nên rối loạn rồi bị mất thăng bằng, và cuối cùng thì
ngã sụm người xuống.
John cố vùng vẫy,
cố quơ tay quơ chân, nhưng hình như tay chân không còn biết nghe lời nó nữa…
John biết ngay là mình
sắp chết. Lạ thực, mình giang hồ mấy chục
năm, bắn chết không biết bao nhiêu thằng, không ai đụng được một sợi lông, chẳng
ngờ lại chết vì muốn cứu những người Tàu xa lạ, không hề quen biết.
Đột nhiên, John cảm
thấy như có một người nắm tay mình kéo ra.
Có lẽ người này rất yếu nên kéo rất chậm, vừa kéo vừa thở hồng hộc…
Một lúc sau, John
được kéo ra tới cửa…
Nhờ có khí trời,
John từ từ mở mắt, thoát khỏi cơn hôn mê và nhận ra người vừa kéo mình ra chính
là thằng Tầu…
Nhưng thằng Tàu vừa
kéo được John tới cửa thì một họng súng rouleau đen thùi lùi đã chỉa vào người
nó. John nhìn thấy người đang chỉa cây
súng vào đầu thằng Tầu chẳng ai khác hơn là thằng thổ phỉ da trắng lúc nãy.
Như thế này là
không được nữa rồi. John thò tay vào bao
súng nhưng quái lạ, cái bàn tay rút súng thần tốc sao bây giờ lại cứng đơ như
thế này hở trời. Lại thêm một chuyện
không được nữa rồi.
Thằng thổ phỉ
không phải chỉa súng để hăm dọa. Nó kéo
con cò mổ ra sau và chuẩn bị bóp cò thật…
Bắn thằng Tàu
xong, nhất định phải tới phiên mình.
Trong khi bàn tay rút súng của mình vẫn còn nằm im bất động.
Nhưng thật là bất
ngờ, thằng Tàu đã xoay người thật nhanh rồi chụp họng cây rouleau chỉa lên trời. Cái nòng súng dài quá mà. Phải chi nó ngắn một chút thì đâu có
sao. Có tiếng súng nổ oành một phát, tóe
lửa lên trời.
Thằng Tàu tiếp tục
khom người xuống và húc vào bụng thằng da trắng một phát thật mạnh, đẩy nó văng
tuốt ra sau, loạng choạng…
John lại rút súng
và lần này thì bàn tay nó bắt đầu chịu nghe lời nó. Mới đầu còn chậm nhưng chẳng bao lâu thì trở
lại tốc độ cũ…
Thằng da trắng đã
lấy lại được thăng bằng, bắt đầu chỉa họng súng vào người thằng Tàu thì John
bóp cò, chỉ nhanh hơn thằng kia cỡ 1/10 giây đồng hồ. Phát thứ nhất vào bàn tay đang cầm súng của
nó, thổi bay mất 3 ngón tay cùng đẩy cây súng văng tuốt lên trời. Phát thứ hai, tiếp theo, vào giữa sống mũi
nó…
John chống tay đứng
lên, tháo ổ đạn, đẩy vào 5 viên mới…
Lửa bây giờ bắt đầu
bùng lên mạnh, sức nóng từ trong bốc ra.
John nhìn xuống cái xác người đàn ông.
Ông ta đã chết từ lâu, cặp mắt trợn trừng khiếp đãm, râu và tóc bị cháy
xém. Cái đuôi tóc dài phía sau cũng cháy
mất tiêu. John và thằng Tàu cùng cúi người
kéo xác người đàn ông ra xa, tránh khỏi vùng có sức nóng đang bốc ra.
Hai người, một Tàu
một da trắng, đứng nhìn sửng vào căn nhà đang bốc cháy. Một chặp, sau khi lấy lại hồn xác, thằng Tàu
quỳ gập người xuống ôm lấy xác người đàn ông, khóc lóc thảm thiết:
-Papa, papa…
Mãi cho đến lúc
đó, John mới nhận ra thằng Tàu này không phải là một thằng bé mà là một thanh
niên tuổi cỡ 20. Nó nhỏ con cho nên ai
cũng tưởng là thằng bé. John để cho nó
khóc chừng vài phút rồi cúi xuống vỗ vai nó, hỏi:
-Tên mày là gì?
-Fang.
-Mày biết nói tiếng
Anh?
-Dĩ nhiên. Tôi sinh ở đây mà.
-Tốt. Tao tên John.
Cám ơn mày cứu mạng tao.
-Cũng cám ơn ông
đã cứu tôi…
Nó đưa tay ra sau,
kéo cái đuôi tóc bây giờ đã cháy gần hết cho John xem
-Không nhờ ông thì
tôi đã là ma không đầu.
Không hiểu tại
sao, John lại bật cười:
-Mày nên cắt mẹ nó
luôn giống bọn da trắng chúng tao coi cho nó đẹp, lại khỏi bị kỳ thị.
-Tôi cũng đã nghĩ
như thế…
Vừa lúc ấy, có tiếng
ồn ào từ phía xa. John liếc mắt thật
nhanh và biết ngay rằng như thế này là không được rồi. Một bọn thổ phỉ khác, cỡ chừng vài ba chục thằng,
vừa đi bộ vừa cưỡi ngựa, súng ống tận răng, mặt mũi đầy sát khí, đang hùng hổ
xông tới. John biết đơn thân độc mã như mình,
dù có bắn nhan đến đâu cũng không thể giết hết chúng được. Chuyện … dọt lẹ là một giải pháp hay nhất. Nó móc túi ra năm đô la, dúi vào tay thằng
Fang:
-Mày lấy số tiền
này mà lo ma chay. Tao phải dọt. Tao có cái tiệm mua bán vàng ở đường số 8,
tên John Wells. Ma chay xong, tới đó tìm
tao, tao có việc cho mày làm.
Nói xong là John
phóng tuốt lên ngựa, nói thêm một câu:
-Nhớ khóc cho thật
to, chúng nó sẽ không làm gì mày đâu.
Thằng Fang gật đầu,
chắp hai tay và quỳ xuống đất mà lạy người khách da trắng đã cứu mạng nó. Nhưng chỉ nghe cạch cạch mấy tiếng, con ngựa
đã quay lui và phóng nước đại, cùng John mất hút trong màn chiều vừa kéo tới…
Một tuần lễ sau,
ma chay cho cha mẹ xong, Fang cắt luôn cái búi tóc phía sau, đi bộ về thành phố
San Francisco, đến đường số 8 tìm John.
Hai người trở thành tâm đầu ý hiệp như nam châm và sắt. John càng ngày càng thấy thích cái thằng
này. Thứ nhất, nó có một cái đầu rất khéo
léo và nhanh nhẹn trong sự buôn bán. Tiếng
Mỹ không phải là ngôn ngử chính của nó mà nói chuyện rất là lôi cuốn, ai nghe
cũng phải xiêu lòng. Thứ hai, sự thật
thà và trung thành của nó. Và thứ ba, nó
có cái tính gan dạ ngang tàng như các giang hồ hảo hán đời xưa. Thứ tư là nó có nhiều tài vặt mà khi hửu sự
John mới nhận ra. Thứ năm, nó nấu ăn rất
khéo. Chỉ cần quẳng cho nó một con gà
hay con gì cũng được, chỉ cần một tiếng đồng hồ thôi là nó sẽ nấu được một bữa
ăn ngon lành…
Nhưng, đời xưa có
nói, thằng nào có tài thì thằng đó có tật.
Thằng Fang cũng có một cái tật.
Cái tật này có thể xóa hết những cái hay của nó vừa kể trên. Ngay cà một thằng tài giỏi và khôn lanh như
John Wells cũng chẳng hề biết cái tật này của thằng Fang. Mãi cho đến khi biết ra thì mới là mình đã bị
tan gia bại sản, không cách gì cứu vãn được.
Nhưng đó là chuyện về sau…
Thời đó ở Hoa Kỳ,
ai đã có của hoặc có công ăn việc làm vững chải thì không dại gì mà mò tới San
Francisco để đào vàng. Chỉ có bọn thất
nghiệp, bọn giang hồ, bọn đá cá lăn dưa, bọn sống ngoài vòng pháp luật, bọn biếng
nhác, ham ăn uống nhưng không ham làm, sống không nổi nơi mình ở mới đổ dồn về
đây để mong làm giàu một cách dễ dàng.
Dĩ nhiên là giữa một bọn người tạp lục như thế thì đủ thứ mọi chuyện có
thể xảy ra, từ ăn cắp ăn cướp cho đến giết người, hiếp dâm xảy ra hằng ngày. Cảnh sát cũng do chúng nó bầu lên cho nên luật
pháp chỉ là một trò chơi của những thằng có tiền, hoặc những thằng bắn hay, bắn
nhanh và bắn chính xác như John. Nó đã bắn
chết tươi hai thằng thổ phỉ tính vào đây ăn cướp vàng ngay trong tiệm nó, máu vẫn
còn thấy mờ mờ trên sàn nhà…
Cái tiệm mua vàng
của John Wells thời đó chỉ là một trong hàng trăm cửa tiệm vàng nhỏ ở San
Francisco dựng lên vội vàng để mua và bán vàng của thiên hạ. Bất kỳ ai có chút vốn liếng, nghèo thì kê một
cái bàn, để một cái cân nhỏ, bên cạnh đó là tấm bảng viết mấy chữ “Mua-Bán
Vàng”, là trở thành một tiệm vàng. Ai
sang hơn một chút thì cất cái chòi. Sang
hơn nữa thì mướn một căn phòng nhỏ, treo biển phía ngoài đàng hoàng như John…
Cửa hàng của John,
mở được vài năm, chẳng có gì đặc biệt hơn hàng trăm cừa hàng khác ở San
Francisco thời đó. Cũng một bảng hiệu, một
căn phòng ẩm thấp tồi tàn, một bàn giấy, một cái cân, và một khuôn mặt lầm lì
hãm tài, chính là John, ngồi bán hàng mà mặt mày lúc nào cũng hầm hầm như thể
muốn đuổi khách ra ngoài. Mới đầu, vì
vàng nhiều và ít tiệm nên còn buôn bán được kha khá nhưng càng về sau, vàng
càng ít đi trong khi tiệm lại mọc lên nhiều cho nên trở thành ế ẩm. Có khi cả ngày chẳng có ma nào ghé vào.
Ngày đầu tiên vào
giúp việc cho John, hai thầy trò chỉ ngồi ngáp dài, chẳng có khách, cũng chẳng
có việc gì để làm.
Đến trưa, thằng
Fang mới nói:
-Xếp ơi, như thế
này là không được rồi. Buôn bán cái kiểu
này thì chỉ có chết.
John lắc đầu, chán
nản nói:
-Tao cũng biết như
thế này là không được rồi. Nhưng mày có
ý kiến gì không?
-Có chứ.
-Ý kiến gì?
-Tôi sẽ sửa sang lại
cái tiệm này một chút và treo cái bảng quảng cáo mới, rất là hấp dẫn…
John búng điếu thuốc
lá đã tàn xuống sàn nhà:
-Mày muốn làm gì
thì làm.
Nói là làm, nó xăn
tay áo, bắt đầu công việc ngay. Trước hết,
Fang làm vệ sinh sạch sẽ cái tiệm. Nó
chùi rửa cửa sổ, bàn ghế, sàn nhà, rửa sạch những dấu vết máu của hai thằng bị
bắn chết trong tiệm. Nó đóng một cái bàn
giấy mới tinh, chùi rửa tất cả những vật dụng trong tiệm, từ cái cân cho tới
cái đồng hồ, vân vân …
Bên trong coi như ổn,
ngày hôm sau, nó đi mua sơn về vẽ một cái biển thật lớn, đề mấy chữ “ John Wells
- Mua Vàng Giá Cao Nhất.” Phía bên cạnh,
nó vẽ hình một con nhỏ đít to vú bự, chỉ mặc trần xì cái quần sì líp và xú
chiêng, một tay cẩm dúm vàng, tay kia cầm một mớ tiền đô la, miệng cười thật
tươi và đang liếc mắt đưa tình với người nhìn.
Ở phía bên kia là hình mấy ly bia và chai rượu thật là to. Nó vẽ rất khéo tay, coi cứ như người thật, rất
là hấp dẫn…
John nhìn tấm biển
và không khỏi bật cười:
-Sao mày lại nhét
con nhỏ đó vào? Tao chưa hề thấy một tấm
biển bán vàng nào lạ lùng như thế?
Fang cắt nghĩa:
-Dân ở đây toàn là
bọn… thiếu đàn bà. Ông nghĩ xem, chúng
nó bỏ vợ con qua đây tìm vàng, làm cực khổ suốt cả tháng trời, bây giờ nhìn thấy
hình đàn bà, chúng nó phải nhào tới. Bán
bao nhiêu thì không biết nhưng quan trọng là chúng nó phải đặt chân vào tiệm
mình cái đã. Mọi chuyện rồi sẽ từ từ được
giải quyết.
-Thế còn hình mấy
chai rượu và bia?
-Ông quên rồi à,
đàn bà luôn luôn đi kèm với rượu. Chơi
gái mà không say rượu thì chẳng thà… đừng chơi.
-Nhưng tiệm mình
chỉ có 2 thằng đàn ông, làm gì có đàn bà và rượu?
Fang cười:
-Tôi đã nghĩ tới
chuyện này rồi.
-Như thế nào?
-Ngày mai tôi sẽ
ngăn cái phòng ra làm hai. Phía trước để
bán vàng, phía sau kê 2 cái giường và một tủ rượu. Khách vào đây, sau bán vàng, nếu muốn quẹo
vào trong để giải trí thì xin chi thêm một đô la. Một ly rượu 10 cents. Còn nếu muốn quẹo ra ngoài để đi về nhà thì
xin cứ tự nhiên cho, không ai ép.
-Bia rượu thì dễ
kiếm rồi, còn gái thì mày kiếm ở đâu.
-Gái Tàu đang thất
nghiệp thiếu gì ở Chinatown, tôi đi một vòng thì đem về bao nhiêu chẳng có.
-Nhỡ tụi nó thích
gái da trắng thì sao?
-Chuyện nhỏ. Bọn gái Tàu này quen biết bọn da trắng nhiều
lắm. Cùng nghề với nhau mà.
John gật gù cái đầu,
cảm thấy khoái chí. Nhưng nó còn một thắc
mắc:
-Chở bọn gái về
đây, chỗ đâu cho chúng nó ở?
Fang lắc đầu:
-Đâu cần. Sáng lên Chinatown chở chúng nó lên đây, chiều
chở chúng nó về. Nếu chúng nó không muốn
về thì nằm ngủ ở đây cũng được. Có mất
mát gì đâu.
Quả đúng như sự
suy nghĩ của thằng Fang. Dân tìm vàng ở
đây mà sau này nước Mỹ và cả thế giới gọi là bọn 49ers, tức Forty-niners, tức
là bọn đến đây vào năm 1849 để tìm vàng là một tập họp của đủ thứ hạng người
như đã nói ở trên. Nhưng lâu lâu cũng lọt
vào vài thằng trí thức như luật sư bác sĩ, và quan trọng hơn cả là vài ông mục
sư.
Sau khi tấm biển
“John Wells – Mua Vàng Giá Cao Nhất” được dựng lên với hình một em gái và mấy
chai bia thì tình hình thay đổi hẳn. Bọn
thợ mò vàng, sau vài tuần hay vài tháng cực khổ làm lụng, ra phố bán vàng đi ngớ
ngớ, chưa biết ghé chỗ nào để bán cho được giá, khi nhìn thấy hình một con nhỏ
chỉ bận sỉ líp xú chiêng thì khoái quá, liền bước vào. Mới bước vào thằng nào cũng chỉ tò mò một
chút, nhưng chúng nó giật nẩy mình khi những thấy những em tóc đen tóc vàng ngồi
lẩn quẩn đó đây, em nào em nấy mới nhìn qua thì ai cũng muốn chảy nước miếng…
Một thằng Tàu đứng
phía sau quầy, ăn mặc lịch sự với cà vạt áo vét như người da trắng, miệng cười
tươi rói với những lời mời mọc. Nhìn cái
bảng giá nó mua vàng để trên quầy thì chẳng cao chút nào như lời quảng cáo,
nhưng đã bước vào đây, đã nhìn thấy mấy em thơm và tươi mát như thế thì ai nở
lòng nào quay mặt bước đi được. Kệ mẹ
nó, có thể nó mua giá không cao lắm, nhưng cứ nhìn mấy em nhởn nhơ trong phòng
thì thằng đàn ông nào lại chẳng muốn bắt chuyện làm quen, tán tỉnh vài
câu. Và biết đâu chừng, rủ được các em
đi chơi phố một vòng thì còn sướng biết mấy nữa. Chỉ có những thằng tinh mắt lắm và từng trãi
giang hồ mới biết các em là điếm, còn ngoài ra đều lầm cả. Lầm to…
Thằng Fang tươi cười:
-Đi đâu mà vội mà
vàng hả quí vị? Quí vị làm ăn cực khổ,
bây giờ là lúc quí vị phải để những hột vàng mà mình chịu cực khổ vì nó, bắt
chúng nó phải phục vụ mình… Tôi nói như
thế có đúng không nào?
Thằng Fang liếc
nhanh sang các cô:
-Các em thấy tôi
nói có đúng không?
Các em liền nhao
nhao lên, mỗi người một câu:
-Đúng quá, đúng
quá đi chớ. Mấy anh cực khổ ngày đêm vì
mấy … cục vàng, bây giờ phải … bán chúng nó đi, bắt chúng nó phải phục vụ các
anh. Như thế mới gọi là công bằng chứ… Tụi em còn có bia có rượu nữa, có anh nào muốn
uống một ly với em không …
Fang giả vờ nghiêm
mặt:
-Các em nói thế
không được. Rượu bia chỉ để ảnh cho
khách quý thôi, không phải ai vào đây muốn uống cũng có… Nhưng đặc biệt cho mấy anh, thấy mấy anh hiền
lành cho nên tôi phá lệ. Ai bán trên một
lượng vàng được mua một chai bia, hai lượng vàng được mua một chai rượu. Rượu này rất ngon, nấu từ miền New Orleans của
Pháp đem vể đây đấy nhá. Bọn Pháp ở New
Orleans nổi tiếng nấu rượu cổ nhắc ngon nhất thế giới…
Dĩ nhiên là những
thứ rượu mà nó giới thiệu ở New Orleans toàn là chuyện bố láo. Ai có thì giờ rảnh mà đi băng sa mạc hoặc đi tàu
thủy qua New Orleans để mua cổ nhắc đem về đây cho bọn tìm vàng nghèo khổ ngu dốt
này uống. Toàn là thứ rượu cho chính tay
thằng Fang nấu lên cách đây vài tuần, theo công thức rượu đế của người Tàu mà
gia đình nó truyền lại từ mấy mươi đời.
Dĩ nhiên, nó phải thêm chút thuốc màu, chút nho khô, chút táo cho nó
thơm thơm giống rượu cổ nhắc. Thứ rượu
này gia đình nó pha nhưng chẳng ai trong gia đình nó dám uống lấy một ngụm. Người uống không biết có ngon không nhưng say
là cái chắc. Và say xong thì ngày hôm
sau khỏi có đi làm đi vì không ai dậy nổi…
Cực khổ mấy tháng
trời trong những căn hầm tối tăm dơ bẩn hôi hám, trên những giòng sông nước chảy
xiết đã cuốn trôi không biết bao nhiêu mạng người, trên những ngọn núi đá đầy
ác thú, trong những thung lũng đầy rắn rết, bây giờ trong túi rủng rỉnh những hột
bắp rang đầy ắp-- dân thời đó gọi vàng thô mới lọc được là bắp rang vì nó coi giống
như mấy hột bắp rang, nhìn bên cạnh lại là những tiên nữ vú đít thật to lớn vĩ
đại, nước hoa thơm phưng phức như mới vừa đi tắm ở động suối tiên ra, con người
dù có khô khan đến đâu cũng khó mà không sa ngã. Chỉ nhìn thấy mấy em là hồn vía đã thấy bủn rủn
rồi, nói gì đến chuyện được cầm tay em hay… bóp vú bóp đít em, hay sướng hơn nữa,
được đè em xuống phện một phát…
Thế là khách thò
tay vào túi, lôi cái túi nhốt mấy hộp bắp rang ra, bỏ lên bàn cân tiểu ly. Cái này 5 chỉ, cái kia 7 chỉ, đủ thứ bắp
rang, cái to cái nhỏ, cái nào cũng vàng tươi óng ả, gom lại cũng hơn 3,4 lượng
vàng.
Mười ngón tay thằng
Fang chạy liên tục trên cái bàn tính có những bánh xe màu đen nho nhỏ, xẹt qua
xẹt lại như ngựa đổi chuồng, kêu ký ca ký cách như một điệu trống ma quái, miệng
nó đếm liên tục, cái này một đô la, cái này đô rưỡi, tổng cộng hai đô rưỡi, vân
vân…
Đếm đi đếm lại
xong xuôi, thằng Fang đẩy cái bàn tính qua một bên, miệng cười cười:
-Dạ của ông anh là
85 đô la 35 xu… Coi có tí xíu vàng mà
sao lại lắm tiền thế nhỉ. Ông anh quả là
một con người tài giỏi. Quá tài giỏi. Phải nói là … vĩ đại mới đúng.
John ngồi trong
góc phòng, nghe như thế thì xém bật cười lên nhưng nín được. Thằng Tàu này quả có nhiều tài vặt, mồm trơn
như thoa mỡ, mình không thể nào bằng nó được…
Thằng tìm vàng
không hiểu tại sao mình đương nhiên bỗng trở thành… vĩ đại nhưng chuyện đó
không có quan trọng. Nó không nói gì, trợn
tròng cặp mắt nhìn thằng Fang chờ đợi.
Fang biết thế nên rình rang kéo cái hộc tủ ra, vừa đủ cho khách nhìn thấy
những đồng đô la mới tinh mà John vừa lãnh từ Ngân Khố Trung Ương Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ ngày hôm qua.
Nó đếm đủ tiền, để
lên quầy, không quên buông thêm một câu:
-Tiền vẫn còn mùi
thơm của Ngân Khố Trung Ương Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đấy nhá… Ối giời ơi, sao mà tiền mới nó thơm quá, ngồi
ngửi cả ngày chắc khỏi cần ăn cơm cũng no.
Nhưng mà ông anh làm ăn giỏi như thế, … vĩ đại như thế thì phải thưởng
cho mình một cái gì đi chứ. Tôi đề nghị
một ve cổ nhắc New Orleans, loại thế kỹ 17, Dăng dắc đờ la Rú Sô hay Dăng Dắc đờ
la … con mẹ gì đó của bọn Tây tóc dài nhé.
Bọn Pháp này trời sinh chỉ biết nấu rượu là giỏi, ngoài ra, không làm được
cái trò gì khác hơn… Mà một con người vĩ
đại như ông thì phải uống Cổ nhắc New Orleans, uống thứ khác là không được, nó
làm mất giá trị của mình đi…
Thằng khách đếm đi
đếm lại những đồng đô la mới tinh trong tay mình. 85 đô la là một số tiền khá lớn. Kiếm được vài lần như thế này nữa thì có thể
từ giả San Francisco mà về quê, mua một nông trại nhỏ, cày bừa làm ăn… Vừa đếm
nó vừa nghĩ đến những ngày làm lụng cực khổ, đến những người thân ở quê nhà khi
gạt nước mắt chia tay nhau, đến những lời hứa hẹn, và cuối cùng, đến tương
lai…
Nhưng sự suy nghĩ về
tương lai chưa đi đến đâu thì đã có một em bé lù lù tiến tới từ phía sau, đẩy cặp
vú vĩ đại vào lưng ông anh như muốn đâm thủng lớp áo mỏng đã gần rách tơm, ởm ờ
nói:
-Một ly cổ nhắc
New Orleans nhé anh… Mua đi rồi em ngồi
hầu rượu với anh…
Trời đất ơi, cặp
vú đàn bà sao mà êm ái như thế này nhỉ?
Mà hình như con nhỏ không mặc xú chiêng cho nên nó mới êm ái và sướng
như thế. Thế là sự suy nghĩ cho tương
lai liền tắt phụt đi trong đầu thằng khách. Mẹ kiếp, nông trại to lớn hay rừng lúa mì trải
dài tới tận chân trời chẳng có nghỉa lý gì cả. Cái mà nó đang nghĩ tới bây giờ là cặp
vú. Ôi những cặp vú tuyệt vời của đàn bà
con gái San Francisco…
Fang đứng bên
trong quầy quan sát không thiếu một chi tiết.
Khi nhìn thấy mặt thằng khách hàng trở nên đờ đẩn như một thằng ngố, nó
biết ngay là ít nhất một nửa số tiền vừa kiếm được bằng mồ hôi nước mắt của mấy
tháng trời lao động cực khổ sẽ không cánh mà bay. Hoặc giả, có khi nguyên cả số tiền đó cũng
bay luôn. Nghĩ thấy cũng tội thật, nhưng
mà, đây là lựa chọn của bạn. Đâu có ai kê
súng vào đầu bạn mà ép bạn bước vào đây đâu.
Bạn tự ý đấy chứ. Cái này người
ta thường gọi là tiếng gọi của con… chim.
Thế là coi như
xong một mạng, thằng Fang liền mở miệng, giọng nói không còn ngọt ngào như lúc
nãy nữa:
-Cám ơn ông
anh. Tới phiên người kế… Ha ha ha… chào ông anh, tiệm của em, mua vàng
cao nhất San Francisco, trả toàn tiền mới, nổi tiếng nhất California… Sao, hôm nay em có thể giúp gì được cho ông
anh vĩ đại của em đây?
Cứ thế và cứ thế,
thằng Fang mua vàng không ngừng tay. Các
em điếm cũng bận rộn không kém. Tiếng cười,
tiếng nói chuyện, tiếng hun nhau chùn chụt ngay giữa tiệm vàng của John Wells biến
nó thành một nơi ăn chơi vui nhộn.
Thằng Fang làm việc
quên cả ăn, miệng cười toe toét, bàn tay chạy loạt soạt trên cái bàn tính không
bao giờ ngưng nghỉ…
Ngài chủ tiệm John
Wells có một công việc rất là nhàn nhã.
Mỗi ngày, nó chỉ ngồi hút thuốc lá âm thầm lặng lẽ sau một cái bàn nhỏ
trong góc phòng, gần cửa ra vào để lo chuyện an ninh. Lâu lâu cũng có một vài thằng thổ phỉ ghé vào
quán tính kiếm chác, nhưng khi nhìn thấy John Wells ngôi hút thuốc lá lạnh lùng
trong một góc thì lẳng lặng rút ra mau hơn bị ma đuổi. Chuyện nó bắn chết mấy thằng thổ phỉ ngay trong
tiệm đã được đồn đi khắp nơi ở San Francisco, ai mà chẳng biết. Ra tới ngoài cửa, chúng nó mới lấy lại được hồn
xác, thề từ này về sau chẳng dám bước vào tiệm nữa…
Chỉ sau vài tuần lễ,
John nhận ra số tiền mình thâu vào bằng hơn cả số tiền mình làm cả năm
nay. Tiền mua vàng có lời, nhưng không lời
bằng tiền gái và tiền bán rượu.
Một tối, hai thầy
trò ngồi nói chuyện. John đề nghị chia
cho nó một phần mười số tiền kiếm được sau khi trừ hết chi phí. Thằng Fang khẳng khái nói:
-Người Á châu
chúng tôi rất mang nặng chuyện ân nghĩa.
Ông đã cứu tôi thoát chết, lại giúp tôi lo việc ma chay cho cha mẹ, tôi
mang ơn cứu tử, tìm gặp ông, làm việc cho ông là để đền ơn, có bao giờ dám nghỉ
đến chuyện chia chát.
John nhất định bắt
nó phải nhận, nếu không thì chia tay. Thằng
Fang đành phải nhận lời, nhưng còn nói thêm:
-Sau này, nếu ông
đổi ý, chỉ cần nói một tiếng, tôi sẽ trả lại hết số tiền tôi kiếm được cho
ông. Nên nhớ, tôi và ông như là hai anh
em một nhà, tụi mình sống chết có nhau.
Xong chuyện chia
chát, giờ đến chuyện khuếch trương. John
nói:
-Tao sẽ mua đứt
cái building này, chia ra làm ba phòng.
Một là tiệm bán vàng, một là khách sạn, và một là văn phòng của tao.
Fang nói thêm:
-Văn phòng của ông
phải có hai cửa. một cửa ăn thông qua tiệm
vàng, phòng khi có chuyện. Một cửa chính
để ông tiếp khách đàng hoàng. Và cái khách sạn phải xây một tầng lầu.
-Lớn như thế để
làm gì?
-Tôi có mấy thằng
bà con biết nấu ăn ngon lắm. Tôi đề nghị
mở thêm một cái tiệm ăn, tiệm rượu trong khách sạn. Khách tới đây bán vàng, qua khách sạn ăn uống
rồi nghỉ qua đêm, tiện cả trăm bề…
Chỉ vài tuần sau,
John thương lượng và mua đứt cái building mình đang mướn. Nó thuê người sửa sang lại, cất thêm cái lầu
và nới rộng thêm, biến cái building thành một buidling với khách sạn, tiệm ăn,
tiệm vàng và văn phòng riêng của nó…
Thế là, chỉ trong
vòng chưa tới 6 tháng, cái tiệm bán vàng vô danh tiểu tốt của John Wells đã biến
thành một căn phố nhỏ với đủ thứ vừa nói ở trên. Lúc ấy John đã quen lớn rồi cho nên ngày khai
trương, nó mời ông thị trưởng San Francisco, ông chánh án, ông cảnh sát trưởng,
ông biện lý, hai thằng chủ nhà băng, mấy ông cố đạo Tin Lành tới khai
trương. Mấy cha này cũng chẳng phải là
dân hiền lành dễ thương gì, khó mời lắm, nhưng nghe tới hai tiếng John Wells mời
thì vui vẻ nhận lời…
Khỏi phải nói, tiệc
vui hết biết. Sâm banh khui nổ tưng bừng,
đồ ăn thức uống toàn là những thứ cao lương mỹ vị, pháo bông đốt rợp trời. Ngay cả thằng Fang ít khi uống rượu nhưng hôm
đó vui quá, cũng làm mấy ly, xỉn mấy ngày sau mới tỉnh…
Tiệc xong, John tặng
mỗi người, từ thị trưởng xuống tới biện lý cảnh sát trưởng, cho tới mấy ông cố
đạo mỗi người một em thơm phức dắt lên giường.
Có điều lạ là, mấy ông thị trưởng, cảnh sát trưởng không ai từ chối món
quà bất ngờ này thì cũng dễ hiểu đi, còn mấy cha cố đạo Tin Lành cũng chẳng từ
chối mới là chuyện lạ...
Thế là coi như
John nắm được hết cơ quan công quyền của thành phố. Ai bảo thằng John Wells này chỉ biết bắn
súng. Có một thứ vũ khí khác nguy hiểm
hơn súng đạn mà chẳng ai biết dùng tới.
Đó là tiền và gái đẹp.
Chỉ tội là tội cho
những thằng chủ tiệm vàng cùng thời với John Wells. Chỉ mới cách đây vài tháng, nó cũng ngồi
trong tiệm hút thuốc lá vặt như mình, sao bây giờ bỗng dưng lại lên quá mau như
thế? Điều tra nghiên cứu, chúng nó thấy chỉ
nhờ tấm biển quảng cáo có hình con nhỏ mặc sì líp xú chiêng mà bỗng trở nên đắc
hàng quá cỡ thì liền bắt chước. Chúng nó
cũng thuê người vẽ biển với hình một con nhỏ vú và đít còn to hơn cả con nhỏ thằng
Fang vẽ nữa. Nhưng vẽ to quá thì đâm ra
lố bịch và chẳng giống ai. Rồi khi khách
bước vào, lại chẳng thấy gái, bèn rút lui.
Bao nhiêu gái đẹp thằng Fang đã quơ hết, còn gái nào đâu để dành cho
chúng nó kìa.
Khi tiệm của John Wells
lên như diều gặp gió như thế thì ít nhất đã có vài chục tiệm vàng âm thầm đóng
cửa. Những thằng còn lại thì tìm đủ cách
để tồn tại. Tồn tại bằng mọi cách.
Cái vấn đề ở đây
là mấy chữ tồn tại bằng mọi cách. Cách
này không được, chúng nó họp lại bắt đầu nghĩ ra cách khác. Và không phải cách nào cũng lương thiện hợp
pháp…
Thế mới có chuyện
xảy ra…
Chuyện bất hợp
pháp xảy ra rất từ từ, đi từ xa đến gần, có lớp lang, có thứ tự đàng hoàng. Mới đầu đi nhẹ, sau đó, tùy theo hoàn cảnh, sẽ
từ từ nặng thêm. Nặng cho đến cỡ nào thì
chưa ai biết rõ, nhưng mọi người đều biết chuyện này, nếu cần thì giải pháp cuối
cùng là bắn chết tươi thằng khốn nạn, quẳng xác nó xuống vịnh San Francisco là
yên chuyện…
Buổi họp đầu tiên,
chúng nó đi rất nhẹ, rất dễ thương, là quyết định tới gặp ngài cảnh sát trưởng,
xúi ngài đóng cửa cái khách sạn vì nó chứa đĩ bất hợp pháp. Nhưng ngài cảnh sát trưởng, mới thưởng thức
cách làm tình tuyệt vời của một em Tàu cách đây không lâu, và đầu óc vẫn còn
đang vương vấn đến cách làm tình bí hiểm đến từ phương Đông mầu nhiệm, có một
không hai của em, vừa nghe là đã lắc đầu, bán cái liền cho ngài thị trưởng:
-Chuyện này chỉ có
ngài thị trưởng mới giải quyết được. Nếu
ngài thị trưởng ra lệnh, tôi sẽ đóng cửa cái khách sạn khốn nạn đó liền trong
vòng một tiếng đồng hồ. Tôi hứa danh dự
như thế. Tiên sư cha bọn khốn nạn, chúng
nó làm ô uế cả cái thành phố San Francisco thanh lịch dễ thương này…
Ngài nói thế,
nhưng ngay ngày hôm sau, ngài lại bí mật mò đến khách sạn John Wells, thông báo
tin này cho John biết. John cám ơn, hỏi
ngài tối nay muốn ngủ với em nào, ngài cảnh sát trưởng nói ngay:
-Cái con Tàu hôm nọ
đó. Ôi trời ơi, nó tuyệt vời quá. Tôi không nghĩ có người đàn bà da trắng nào
biết làm tình kiểu đó. Bọn người Á châu
quả thật là tuyệt vời…
Nói tới đó, thằng
cha cảnh sát trưởng hứng tình quá, quên tuốt luốt mình đang nói chuyện với một
người lạ, buông luôn một câu:
-Từ hôm làm tình với
con Tàu về, tôi quên luôn con vợ già của tôi, chẳng hề muốn đụng tới nó… Quả là chán đời, làm tình cái kiểu gì mà cứ
leo lên giường rồi nằm tô hô một đống như một khúc củi, thử hỏi, ai còn hứng
thú gì nữa? Mẹ kiếp, nói ra nghe thì thật
là chán quá mà chẳng biết phải làm gì.
Nói tới đó, sực nhớ
ra là mình đang nói chuyện với ai, thằng cảnh sát trưởng liền bụm miệng, hú nhỏ
lên một tiếng:
-Ôi giời, chuyện
vui kể cho ông nghe, xin đừng nói lại với ai nhé.
-Ngu gì mà
nói. Nhưng hôm nào ông muốn giải trí với
em thì cứ tới đây, tiệm John Wells này sẽ lo đủ. Còn bây giờ thì xin mời ngài lên giường với nhân
viên của tôi. Xin chúc ngài có một buổi
tối tươi đẹp…
Ngày hôm sau, ngài
thị trưởng San Francisco đón tiếp phái đoàn thợ vàng… sắp đóng cửa. Giống như ngài cảnh sát trưởng, ngài thị trưởng
nghe xong thì liền nhớ đến đĩa bí tết tôm hùm kèm ốc biển của vịnh San
Francisco độc nhất vô nhị, cộng thêm em bé người Tàu làm tình độc đáo, liền gật
gù cái đầu và nói:
-Tôi rất đồng ý với
những đòi hỏi của anh em. Thành phố này
là một thành phố văn minh, không thể nào để những chuyện tồi bại dơ bẩn đó xảy
ra trong thành phố yêu quí của chúng ta được…
Ngài thị trưởng ngừng
một chút, nhìn bọn chủ tiệm vàng đang dương những cặp mắt hy vọng nhìn ngài,
ngài tiếp:
-Nhưng, phải thành
thật mà nói, thành phố này chưa có lệnh cấm mãi dâm. Nhưng không phải là không có lệnh cấm mãi dâm
mà mình cứ để cho ai muốn làm gì thì làm.
Mình phải tốp chúng nó lại. Hay
nhất, tôi đề nghị như thế này. Quí vị đến
gặp hội đồng mục sư thành phố San Francisco.
Trình bày cho biết những nguy hiểm của nghành mãi dâm, đề nghị hội đồng
cử người tới nói chuyện với bọn khốn nạn đó.
Nếu chúng nó không chịu dẹp, tôi sẽ có biện pháp, tôi hứa với quí vị như
thế…
Như thế là ngài thị
trưởng lại bán cái qua cho mấy cha mục sư mà ngài chẳng còn chút nể nang gì cả. Tại sao lại như thế? Chẳng qua là cái hôm đi dự tiệc ở khách sạn John
Wells, chúng nó dâng gái cho mấy ngài, mấy ngài chẳng thèm từ chối, dù là từ chối
một hai lần cho có lệ. Cha nào cha nấy
nghe tới gái là mừng húm, mau mau chụp một em để lên lầu cho lẹ. Toàn là một bọn thổ phỉ, giả hình, đội lốt
nhà thờ để làm chuyện tồi bại.
Ngay tối hôm đó,
cũng giống như thằng cảnh sát trưởng, ngài thị trưởng liền bí mật ghé qua khách
sạn John Wells để thông báo mọi chuyện cho John biết. John cũng cám ơn và thưởng cho ngài thị trưởng
một em…
Thế là hội đồng của
những người có tiệm vàng … sắp đóng cửa lại khăn gói quả mướp đến gặp ngài mục
sư trưởng của giáo phái Lutheran, thành phố San Francisco.
Cũng giống như thằng
cảnh sát trưởng và thằng thị trưởng, nghe nói tới chuyện đĩ điếm ở John Wells
thì ngài cố đạo nhớ ngay đến cái buổi tối hôm nọ. Một buổi tối thật là tuyệt trần…
Nhưng ngài cố đạo
có cái kẹt hơn thằng cảnh sát trưởng và thằng thị trưởng. Bọn đang ngồi trước mặt ngài là những thằng
đi lễ mỗi chủ nhật. Quan trọng hơn cả,
lúc chúng nó đang còn ăn nên làm ra, chúng nó cho tiền nhà thờ rất bạo, rất đẹp. Có thằng còn tặng cho ngài cả cái thánh giá bằng
vàng, nặng đến độ khiêng không nổi. Và
chủ nhật nào cũng thế, ngài luôn luôn hô hào kêu gọi mọi người phải tránh xa mọi
thói hư tật xấu, ăn năn hối cải để chờ đón ngày phán xét cuối cùng, làm y như
là ngày mai sẽ là ngày tận thế vậy. Bây
giờ, chúng nó tới đây với một cái đề nghị như thế làm sao ngài bỏ qua được…
Rõ khổ. Ai bảo nghề mục sư là nghề nói dóc ăn tiền
thì phải coi gương cha đây.
Nhưng ngài cũng đã
có chủ ý riêng rồi.
Nghe mọi người
trình bày xong, ngài cố đạo liền lắc đầu nhăn mặt lại, hùng dũng nói:
-Lạy Chúa tôi, như
thế là không được rồi. Quỷ Sa Tăng đã
kéo về vây phủ San Francisco rồi. Lạy
Chúa, như thế là không được. Chúng ta phải
có biện pháp đối phó…
Bàn tới bàn lui một
lúc, ngài cố đạo quyết định:
-Bây giờ như thế
này. Để tôi sẽ đích thân tới nói chuyện
với thằng John Wells. Tôi biết nó
mà. Ngày xưa thỉnh thoảng nó cũng có đi
nhà thờ, chúng tôi là bạn tốt dưới tình yêu của Thiên Chúa. Tôi sẽ cố gắng thuyết phục nó đóng cửa khách
sạn. Nếu nó không chịu, tôi sẽ tổ chức
biểu tình trước khách sạn của nó, và vì quyền lợi của dân thành phố San
Francisco, tôi sẽ yêu cầu thị trưởng cho cảnh sát tới đóng cửa khách sạn…
Một thằng trong
đám chủ tiệm vàng nói luôn:
-Yêu cầu ngài cho
đóng luôn cái cửa tiệm vàng của nó, vì chúng nó có dây mơ rể má với nhau.
Theo pháp lý thì cái
tiệm vàng chẳng có ăn nhậu gì tới cái khách sạn, nhưng ngài cố đạo cũng nói
luôn:
-Đúng thế, phải
đóng luôn cái tiệm vàng đầy tội lỗi kia luôn…
Trước khi đứng lên
bế mạc buổi họp, ngài cố đạo nói:
-Anh em phải cho
tôi một hai tuần lễ để tôi chuẩn bị. Bây
giờ tôi đang còn bận nhiều việc lắm.
Nói là “cho tôi
hai tuần lễ,” nhưng tối hôm đó, ngài cố đạo lại bí mật mò tới khách sạn John Wells,
nói chuyện với John và kết luận:
-Chúng nó muốn tôi,
đúng hơn là ép buộc tôi, phải biểu tình ngoài khách sạn cho đến khi khách sạn
đóng cửa, cộng thêm chuyện gởi thơ lên hội đồng thành phố, lên thị trưởng thành
phố để phản đối. Ông nghĩ sao?
John cười:
-Chúng nó muốn thế
thì cứ làm như thế.
Ngài cố đạo giật nẩy
mình lên, tròn miệng lại:
-Lạy Chúa tôi, ông
không đùa tôi đấy chứ.
John liếm điếu thuốc
lá, vấn lại, bỏ vào miệng, đưa qua đưa lại giữa cặp môi:
-No.
-Nhưng tôi nỡ nào
mà làm như thế sau khi những gì ông đã làm cho tôi. Nói thật, tôi đã tính bỏ San Francisco này mà
lẳng lặng ra đi, tìm một mảnh đất hiền hơn, nghèo hơn, để rao giảng tin lành của
Thiên Chúa.
-Oh, no. Đừng làm như thế. Chúng tôi cần ngài. Bây giờ thì ngài cứ biểu tình, nhưng chỉ
trong một số giờ cố định.
Ngài mục sư chồm tới
trước, xém tí nữa thì làm đổ cả ly rượu ra bàn:
-Giờ như thế nào?
- Mỗi ngày, kể
luôn cả thứ bảy chủ nhật, từ 8 giờ đến 4 giờ chiều, ngài cứ cho con chiên bổn đạo
biểu tình líp ba ga, càng đông càng tốt, la ó và chửi bới càng nhiều càng tốt. Nhưng sau 4 giờ là phải cuốn gói đi về.
Cha cố đạo tròn miệng
lại:
-Xin lỗi, tôi không
hiểu.
John cười:
-Ngài là đấng tu
hành làm sao hiểu được chuyện thế nhân.
Chẳng có gì mà khó hiểu cả. Bọn
ăn chơi đàn điếm thì cỡ sau 4 giờ chiều chúng nó mới xuất hiện. Tối hôm trước ăn nhậu chơi bời nên phải đi ngủ
trễ, mà 3, 4 giờ sáng mới leo lên giường thì hôm sau làm sao dậy sớm được? Còn ban ngày ban mặt là giờ thiên hạ còn phải
lo đi làm ăn, ai có thì giờ để mò vào đây?
Chẳng những thế, biểu tình còn là một hình thức quảng cáo không tốn tiền
cho tôi. Ngài cứ đem cái tên John Wells
ra mà chửi càng nhiều càng tốt. Bọn con
chiên của ngài sẽ biến tôi thành một anh hùng của cái thành phố San Francisco
này, ha ha ha…
Ông cố đạo đi từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thằng
John Wells này quả là một thằng lợi hại.
Ngài đưa tay, chụp ly rượu, làm một ngụm thật lớn để lấy lại hồn xác:
-Còn chuyện đơn từ
gởi lên hội đồng thành phố, gởi lên thị trưởng thì sao?
-Ngài cứ tự nhiên
mà gởi. Mỗi ngày gởi một lá hay 10 là cũng
được. Nếu sợ tốn tiền tem thì đưa đơn
đây cho tôi, tôi đưa thẳng cho mấy cha hội đồng thành phố luôn…
-Lạy Chúa tôi, sao
lại như thế?
-Mấy cha nội đó mỗi
tuần không ghé khách sạn John Wells vài lần thì không thể nào sống được…
Sau buổi gặp mặt
hôm đó, John chờ mãi, nhưng đến mãi hai tuần lễ sau mới có biểu tình. Sáng sớm, cỡ chừng vài chục con chiên, dẫn đầu
bởi ngài cố đạo khả kính, mang nào biểu ngữ, nào băng rôn, viết những hàng chữ
thật là ác liệt như, “Jesus Loves You”, “Hãy sám hối, ngày tận thế đã tới”, “Chúa
chịu chết vì tội lỗi của các người,” vân vân
John và thằng Fang
đang ngồi trên lầu hai khách sạn ngó xuống.
John phán:
-Đù mẹ chờ mãi đến
bây giờ mấy cha mới chịu ló mặt…
Ngài mục sư, vốn
được Chúa cho cái giọng oang oang như lệnh vỡ, cầm cây thánh giá đưa cao lên và
hô to:
-Jesus Loves You…
Đám con chiên hùa
theo, la to lên:
-Jesus Loves you…
-Các người hãy lo
sám hối đi…
-Các người hãy lo
sám hối đi…
-Chúng ta phải chống
lại ác quỷ Sa Tăng
- Chúng ta phải chống
lại ác quỷ Sa Tăng…
-Đả đảo John
Wells.
-Đả đảo John Wells…
-Đĩ điếm là chuyện
tồi bại…
-Đĩ điếm là chuyện
tồi bại…
Cứ thế và cứ thế,
đám người đi vòng vòng trước khách sạn John Wells, hết đường, quẹo lui, rồi lại
đi tiếp và la tiếp…
Thằng Fang ngắm
nhìn nhóm người biểu tình một chặp rồi bỗng dưng nảy ra một kế độc. Nó cười hì hì, nói:
-Xếp để cho tôi xuống
dưới đó tham gia tụi biểu tình cho vui…
Khỏi cần hỏi, John
cũng biết thằng đệ tử của mình vừa nảy ra một kế hay, gật đầu, không nói gì.
Thằng Fang lui vào
nhà bếp lấy ra một chai rượu loại ngon nhất, đổ vào hai cái ve dẹp và nhỏ bỏ
vào hai túi. Chẳng bao lâu, nó đã trà trộn
vào đám con chiên đang biểu tình ở ngoài.
Chỉ chừng 5 phút sau, nó đã là người đi sát với ngài mục sư, lúc ấy, một
tay cầm ống loa bằng giấy, một tay cầm thánh giá, vừa đi vừa la hét loạn xạ…
Đến một lúc nào
đó, nó húc nhẹ vào hông ngài mục sư một phát khá mạnh:
-Ngài la… hay quá,
to quá… Thật là tốt.
Ngài mục sư quay
sang nhìn và chưng hửng khi nhìn thấy thằng Fang. Ngài chẳng lạ gì cái thằng đầu bếp và quản lý
số một của khách sạn John Wells. Ngài rất
thích nó bởi lúc nào miệng nó cũng cười cười, và quan trọng hơn cả, nó luôn
luôn tiếp đãi ngài rất hậu. Vì ngài không
muốn thiên hạ thấy mặt mình ở khách sạn nên thằng Fang luôn luôn dành cho ngài
một phòng ăn riêng, rất kín đáo. Và dĩ
nhiên, phải một cầu thang kín đáo đi thằng vào nhà bếp, tránh xa mọi cặp mắt
dòm ngó của thiên hạ.
-Mày làm gì ở đây?
-Dạ con tham gia
biểu tình với ngài.
Ngàu mục sư ngạc
nhiên:
-Mày mà cũng …
cũng… chống đỉ điếm à? Ông John Wells có
cho phép mày không đấy?
-Dĩ nhiên là phải
cho. Nhưng có cái này…
Vừa nói Fang vừa
móc ra một ve rượu, rất kín đáo dúi vào tay ngài và lấy luôn cái loa bằng giấy
trong tay ngài:
-Sáng giờ la hét
nhiều quá, giọng của ngài thấy khàn rồi đấy.
Ngài làm một ngụm để lấy lại giọng.
Ngàu mục sư đang cầm
cái loa, bỗng dưng thấy nó biến thành chai rượu trong tay mình thì vừa ngạc
nhiên vừa mừng rỡ. Lạy Chúa, sáng giở la
hét nhiều quá rồi, đang khát nước, giờ được cái chai nước thánh này thì còn quí
hơn là nước nữa.
Thằng Fang buông
thêm một câu:
-Làm một hớp đi
ngài, để tôi nói phụ cho…
Nói xong, chẳng cần
chờ ngài cho phép, nó kề miệng vào cái loa giấy bây giờ đã mềm èo vì nước miếng
văng tùm lum trong đó, la lên thật to:
-Jesus Loves you…
Mọi người đều nhao
nhao, chẳng ai để ý cái giọng phát trong loa là giọng của người khác:
-Jesus Loves You…
Nghe thằng Fang la
như thế thì ngài mục sư liền thấy yên tâm, và bỗng thấy thèm một ngụm rượu. Ngài đưa chai rượu liên, tu liền một hớp. Lạy Chúa, sao rượu hôm nay thấy ngon như thế
này?
Thằng Fang lại tiếp,
to hơn một chút:
-Đả đảo John Wells
-Đả đảo John
Wells…
-John Wells là quỷ
Sa Tăng
-John Wells là quỷ
Sa Tăng…
-Đĩ điếm là không
có tốt.
-Đĩ điếm là không
có tốt…
Sau một vài lần
như thế, nó lại hô to:
-Đĩ điếm là không
có … John Wells.
Mọi người hò theo:
-Đĩ điếm là không
có … John Wells…
Ngay chính ngài mục
sư cũng lớn miệng hô theo câu đó. Hô
xong ngài mới biết mình lỡ lời, nhưng không biết phải làm gì.
Fang lại chửi:
-Đả đảo John Wells
-Đả đảo John
Wells…
Rồi lại sửa:
-Đĩ điếm là không
có … John Wells
-Đĩ điếm là không
có … John Wells…
Ngài mục sư lúc đó
đã làm hai hớp rượu, nên đầu óc có phần bối rối, thúc cùi chỏ nó:
-Tại sao lại nói
đĩ điếm … không có John Wells?
Fang vỗ vào ngực
mình:
-Tôi là chủ cái
nhà Thổ ấy chứ có phải ông John Wells đâu?
-Lạy Chúa tôi, thật
thế sao?
-Chứ sao nữa,
nhưng đã lỡ đả đảo ông John Wells rồi, bây giờ phải phục hổi danh dự cho ông ấy?
-Như thế nào?
Thằng Fang không
trả lời mà lại đưa mồm vào loa hét to lên:
-Hãy mua và bán
vàng cho John Wells…
Mọi người, kể cả
ngài mục sư, liền đồng thanh hét to lên:
-Hãy mua và bán vàng
cho John Wells…
Không phải một lần
mà ba bốn lần như thế…
John Wells đứng
trên lầu hai khách sạn, nhìn xuống và không thể nào nhịn cười được. Thằng Chệt này quả có nhiều tài vặt…
Phía dưới, ngài mục
sư lại trợn mắt la toáng lên sau khi đã lỡ mồm kêu gọi mọi người mua và bán
vàng cho John Wells:
-Tại sao lại có
chuyện mua bán vàng vào đây, mục đích cuộc biểu tình là chống đĩ điếm mà…
-Dĩ nhiên, chúng
ta vừa chống đĩ điếm vừa… mua bán vàng của John Wells cùng một lượt…
Hô hào thêm một chặp
nữa, coi bộ chừng cảm thấy như thế cũng đủ rồi, thằng Fang đưa ve rượu thứ hai
cho ngài mục sư:
-Còn chai này để
làm gì, ngài giữ lấy mà uống cho có sức…
Nói xong, nó giao
cái loa giấy lại cho ngài mục sư và biến mất…
Xin coi tiếp phần
2…