Sunday, November 23, 2025

Chuẩn Tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ


Phan Đình Thứ (22 tháng 4 năm 1919 – 23 tháng 7 năm 2002),[2] nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. Ông nguyên là Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức, nguyên Tư lệnh Binh chủng Lực lượng đặc biệt và nguyên Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt Động Quân. Ông cũng là một sĩ quan mang cấp bậc Đại tá lâu nhất (1956 – 1971).

Tiểu sử và binh nghiệp

Lam Sơn tên thật là Phan Đình Thứ sinh ngày 22/4/1916 tại Hà Tĩnh và lớn lên tại Huế. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông vào đời rất sớm, phải vừa tự học, vừa đi làm. Ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Huế với văn bằng Thành chung.

Năm 1937, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp thuộc Binh chủng Pháo binh tại Sài Gòn, mang số quân: 39/200.308. Năm 1940, ông được chuyển sang ngành Thông ngôn, phục vụ tại Hạt CharentesPháp.

Đầu năm 1943, khi đang là một Hạ sĩ quan Thông ngôn, ông được đơn vị cử theo học Trường Võ bị Lục quân Pháp tại Bắc Phi. Tháng 6 cùng năm, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Sau đó, ông được cử đi học bổ túc ở Trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ, mãn khóa ông được thăng cấp Thiếu úy và phục vụ cho Quân đội Viễn chinh Pháp tại chiến trường TunisiaAlgérie. Năm 1944, ông theo đơn vị trở về Đông Dương đóng quân ở Lào. Năm 1945, ông được thăng cấp Trung úy và được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán Biệt kích Nhảy dù đa quốc gia, được lệnh nhảy dù xuống Cánh đồng Chum ở Lào để giải giới quân đội Phát xít Nhật.

Quân đội Liên hiệp Pháp

Năm 1950, ông được thăng quân hàm Đại úy, hồi hương và phục vụ trong Quân đội Quốc gia Liên hiệp Pháp, được cử chỉ huy một Tiểu đoàn người Việt Nam đóng tại Quảng Trị. Cùng năm này, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập (tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này).

Năm 1952Quân đội Quốc gia Việt Nam thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được chuyển sang phục cơ cấu ban ngành mới này. Năm 1954, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi học khóa Trung đoàn trưởng tại Trung tâm nghiên cứu Quân sự Hà Nội.[3] Học cùng khóa với ông còn có Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu và Đại úy Nguyễn Chánh Thi.

Tháng 10 năm 1955Quân đội Quốc gia Việt Nam được cải danh thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 Khinh chiến đóng tại Đông HàQuảng Trị. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1956, ông được thăng cấp Đại tá nhiệm chức[4] thay thế Đại tá Lâm Văn Phát làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm 1957, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 13 Khinh chiến lại cho Đại tá Nguyễn Hữu CóTháng 06 năm 1959, ông được cử đi du học khóa Tham mưu cấp cao tại Trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang KansasHoa Kỳ. Nhập học được hơn 03 tháng, ông vi phạm kỷ luật ở trường vì vụ việc ẩu đả với sĩ quan huấn luyện Hoa Kỳ, do bảng tên của ông là LAMSON viết dính liền với nhau, viên sĩ quan ấy đã tưởng ông đặt một cái tên Mỹ để thể hiện lấy le bèn nói khích và giọng điệu đầy coi thường như sau: "Ai chẳng biết mày là người Việt Nam? Mày lấy một cái tên Mỹ như này bộ không thấy xấu hổ hay sao?". Vì bị xúc phạm đến lòng tự tôn dân tộc, không kiềm chế được nên ông đã lao vào đấm viên sĩ quan huấn luyện người Mỹ kèm theo tiếng chửi thề: "Thằng nhóc, tao đã từng chiến đấu ở chiến trường châu Áchâu Phi, chứ không ru rú ở trong một cái xó xỉnh như mày, tên Việt Nam của tao ra sao thì tao viết y như vậy, chứ không cần đặt tên Tây, tên Mỹ gì hết". Sau vụ việc đó thì ông bị triệu hồi về nước và được cử đi làm Sĩ quan Tùy viên Quân sự cạnh Sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Manila của Philippines.

Trung tuần tháng 11 năm 1960, rời tòa Đại sứ quán Việt Nam Cộng hoà tại Manila về nước, ông được cử thay thế Thiếu tá Phan Trọng Chinh giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt Động quân.[5] Giữa tháng 05 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt Động quân lại cho Đại tá Tôn Thất Xứng. Vào thời điểm ông làm Chỉ huy trưởng của trường thì ông lại càng nổi tiếng về việc đánh Cố vấn trưởng người Mỹ. Trong một buổi duyệt binh hằng tuần vào mỗi sáng thứ 02 thường lệ, viên Đại tá Cố vấn Mỹ cùng với Đại tá Lam Sơn đã đi ngang qua toán hầu kỳ. Bất chợt, viên Đại tá Cố vấn dừng lại, đưa ngón tay út chọc sâu vào đầu nòng súng khẩu M1 Garand của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí, và ngón tay út của ông ta dính đầy dầu chùi súng. Cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đã đưa ngón tay út dính dầu quẹt vào mặt của anh ta. Đứng bên cạnh, Lam Sơn không nhịn nổi, ông đã tát viên Đại tá Cố vấn Mỹ kèm theo lời cảnh cáo: "Tôi tặng ông cái tát này để ông nhớ đời, đừng có hành động mất dạy và coi thường cấp dưới giống vậy với bất kỳ người lính nào, nếu họ có lỗi thì ông có thể phạt họ theo quân kỷ nghe rõ chưa?". Cùng thời điểm ông được chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức[6] thay thế Thiếu tướng Hồ Văn Tố vừa từ trần Ông đã đưa ra sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của trường.[7] Trong thời gian đương nhiệm, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho 3 khóa Sĩ quan Trừ bị là khóa 12 Trần Hưng Đạo, khóa 13 Ấp Chiến Lược và khóa 14 Nhân Trí Dũng. Đầu tháng 08 năm 1963, Liên trường Võ khoa Thủ Đức trở lại tên gọi ban đầu là Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.

Đầu tháng 11 năm 1963, ông được lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức lại cho Thiếu tướng Trần Ngọc Tám. Trung tuần tháng 02 năm 1964, ông được cử làm Tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt[8] thay thế Trung tướng Lê Văn Nghiêm đi làm Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá Đoàn Văn Quảng (nguyên Chỉ huy trưởng Biệt Động quân Vùng 3 Chiến thuật). Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu nhận nhiệm vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao, lần lượt phụ tá cho các vị Tổng cục trưởng: Trung tướng Mai Hữu Xuân (1964), Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao (1965-1966), Trung tướng Nguyễn Bảo Trị (1966) và Trung tướng Trần Văn Trung (1966-1975). Tháng 09 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước Trại Chương Dương của Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt đã hy sinh vì Tổ Quốc.

Đầu năm 1970, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Ngay sau đó, thuyên chuyển về Sài Gòn ông được cử giữ chức vụ Phụ tá cho Trung tướng Nguyễn Văn Minh[9] Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 06 cùng năm, thuyên chuyển đến Quân đoàn III giữ chức vụ Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân khu 3 kiêm Chỉ huy trưởng Địa Phương quân & Nghĩa quân thuộc Quân khu trải qua 2 vị Tư lệnh Quân đoàn là Trung tướng Đỗ Cao Trí (08/1968-02/1971) và Trung tướng Nguyễn Văn Minh (02/1971-10/1973). Đầu năm 1971, ông được thăng cấp Chuẩn tướng nhiệm chức.[10] Đầu năm 1972, thuyên chuyển ra Quân khu 2, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng[11] và trải qua 2 vị Tư lệnh Quân đoàn là Trung tướng Ngô Dzu (08/1970-05/1972) và Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (05/1972-11/1974).

Được tặng thưởng Huy chương

Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huân, huy chương của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.
Huy chương Việt Nam Cộng hòa:
– Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương (ân thưởng)
– Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương (ân thưởng)
– Lục quân Huân chương
– Biệt công Bội tinh
– Chiến thương Bội tinh
– Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu
– Anh dũng Bội tinh với ngôi sao vàng
– Mười lần Tuyên dương công trạng trước quân đội.
Huy chương Pháp:
– Bắc đẩu Bội tinh (Legion D’Honneur)
– Chiến dịch Bội tinh (Croix De Gùerre)
– Huy chương bảo vệ nước Pháp (Medaille De La Résistance). Do Tổng thống Charles De Gaulle trao tặng những sĩ Quan đã bảo vệ nước Pháp trong trận Chiến tranh thế giới thứ hai 1943.
Huy chương Mỹ:
– Huy chương ngôi sao bạc (Silver Star). Do Đại tướng Westmoreland gắn tại Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc Biệt Nha Trang.
– Huy chương Lào:
– Huy chương Bạch tượng. Do Quốc Vương Lào gắn.

Sau 1975

Sau ngày 30 tháng 04, ông ra trình diện Ban Quân quản Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam của Chính quyền mới, bị đưa đi tù cũng như các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khác và bị đưa ra miền Bắc Việt Nam tập trung ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khi đi cải tạo, vì bị mất liên lạc với gia đình, ông không được thăm nuôi, nên được gọi là tướng mồ côi.[12]

Mười ba năm sau (1988) ông được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình H.O, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình H.O. Một thời gian sau, thông qua người thân trong gia đình ông, một người bạn Pháp từng sát vai chiến đấu với ông tại chiến trường Tunisie là Tướng nhảy dù Guy Simon đã trình bày với Bộ Tư lệnh Nhảy dù, Bộ Ngoại giao và Bộ Di trú Pháp về trường hợp một cựu sĩ quan nhảy dù Pháp tên là Lam Sơn - Phan Đình Thứ và Tướng Simon đã đứng ra bảo lãnh cho cả gia đình Lam Sơn sang định cư tại Pháp. Chính phủ Pháp đồng ý và Lam Sơn đã sang Pháp năm 1989. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, Chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989.

Năm 1995, ông một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 tháng 07 năm 2002. Hưởng thọ 83 tuổi.

Friday, November 21, 2025

Biệt Kích Nha Kỹ Thuật

Ta gặp lại, biết ai còn ai mất
               Mất hay còn - sống mãi với thiên thu.
        Chí bình sinh vẫn rạng nở hoa dù
                   Một phút sống vẫn lừng danh Biệt Kích!

 

Wednesday, November 19, 2025

Trận An Lộc Wikipedia

Thời gian13 tháng 4 - 20 tháng 7 năm 1972
(3 tháng và 1 tuần)
Địa điểm
Kết quảViệt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ chiến thắng
Tham chiến
Việt Nam Cộng hòa Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa Việt Nam Cộng Hòa
Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Chỉ huy và lãnh đạo
Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Trà
  Bùi Thanh Vân[1]
  Nguyễn Thới Bưng[2]
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Minh
  Lê Văn Hưng
  Lê Nguyên Vỹ
Hoa Kỳ James Hollingsworth
  Richard J. Tallman [3]
Lực lượng
Toàn chiến dịch ~ 31,640+[4]:13
  •  Sư đoàn 5: 9.230
    • Trung đoàn 174
    • Trung đoàn 275
    • Trung đoàn E6
  •  Sư đoàn 7: 8.600
    • Trung đoàn 141
    • Trung đoàn 165
    • Trung đoàn 209
  •  Sư đoàn 9: 10.680
    • Trung đoàn 271
    • Trung đoàn 272
    • Trung đoàn 95
  • Trung đoàn 101: 760
  • Trung đoàn 205: 1.250
  • Trung đoàn Tăng thiết giáp 203: 800
    • Tiểu đoàn Tăng thiết giáp 20
    • Tiểu đoàn Tăng thiết giáp 21[5]
Trung đoàn Đặc công 429: 320
Hỗ trợ hoả lực:
  • Đoàn pháo binh 75: 3.830[4]:13
    • Trung đoàn Pháo binh 42d
    • Trung đoàn Tên lửa 208
    • Trung đoàn Pháo cao xạ 271
Việt Nam Cộng hòa Tại An Lộc: 7,500[6]:80

Tiếp viện: 25,000+
 Lữ đoàn Nhảy dù 1
 Liên đoàn Biệt cách dù 81
 Sư đoàn 21

Hỗ trợ đường không:
 Không quân Hoa Kỳ
 Hải quân Hoa Kỳ
Thương vong và tổn thất
Theo Hoa Kỳ ước tính:
10.000 chết
15.000 bị thương[8]
Theo hồ sơ quân y của Quân Giải phóng:
Khoảng 2.000 chết
5.000 bị thương [9]
~40 xe tăng, xe bọc thép bị phá huỷ hoặc hư hại[7]:131
Theo Việt Nam Cộng hòa:
2.280 chết
2.091 mất tích
8.564 bị thương[6]:187
38 chiến xa và xe thiết giáp, 32 khẩu pháo bị phá hủy
10 phi cơ, 20 trực thăng bị bắn rơi[6][10]
Theo Mặt trận:
Hơn 8.000 thiệt hại ở nội đô An Lộc[11]

 Trận An Lộc là trận chiến tại An Lộc.[12] Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong Chiến tranh Việt Nam.[13] Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì đây là một trận đánh hiệp đồng binh chủng trong đợt 1 của Chiến dịch Nguyễn Huệ (1 tháng 4 năm 1972 - 19 tháng 1 năm 1973).

An Lộc là địa bàn quân sự chiến lược tối quan trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì đây là cửa ngõ phía Bắc ngăn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về thủ đô Sài Gòn sau khi quận lỵ Lộc Ninh rơi vào tay họ ngày 7 tháng 4 năm 1972.

Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công trực tiếp thị trấn An Lộc gồm có Sư đoàn 9, 2 trung đoàn pháo binh 28 và 42, 4 tiểu đoàn pháo phòng không[14] và tiểu đoàn tăng thiết giáp 20, về sau tăng cường thêm tiểu đoàn tăng thiết giáp 21.[15] Tham chiến ở vòng ngoài là Sư đoàn 5, 7 và Đoàn C30B.

Phòng thủ thị trấn An Lộc, phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa có Sư đoàn 5 Bộ binh, Liên đoàn 3 Biệt động quân cùng lực lượng Dân vệ và Địa phương quân tỉnh Bình Long. Trong quá trình diễn ra trận đánh, Không lực Hoa Kỳ dùng trực thăng chở thêm hàng ngàn quân Việt Nam Cộng hòa vào An Lộc, đồng thời huy động gần 20.000 quân tìm cách giải vây bằng cách đánh theo Đường 13. Ngoài ra, Không lực Hoa Kỳ yểm trợ bằng gần 1.000 phi cơ và trực thăng các loại, từ ném bom, vận tải tới chuyển thương.

Bối cảnh trước trận đánh

Tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị Đảng lao động Việt Nam ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên (chiến dịch Trị Thiên), trong đó Đông Nam Bộ là hướng tiến công chính nhằm tiêu diệt 1 lực lượng quân sự lớn và mở rộng vùng chiếm được. Chủ trương ở Đông Nam Bộ là đánh gục Quân đoàn III và lực lượng tổng trù bị của Việt Nam Cộng hòa.

Cuối tháng 2, khi quá trình chuẩn bị đã hoàn tất, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ với lực lượng hùng hậu tương đương cấp Quân đoàn.

Trước lúc diễn ra trận đánh, Quốc lộ 13 đã bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Lúc này An Lộc bị cô lập, quân lực VNCH muốn chi viện chỉ còn cách dụng đường không.[16] Ngày 05/04/1972, Quân Giải phóng mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Ngày 07/04 Quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn quận Lộc Ninh, thọc sâu đánh sang quận Chơn Thành và bao vây chặt thị trấn An Lộc.[11]

Lực lượng Quân Giải phóng

Thường trực tại Bộ chỉ huy còn có:Hoàng Văn TháiPhạm HùngTrần Độ và Hoàng Cầm.[17]

Trực tiếp chỉ huy các đơn vị chiến đấu tại trận An Lộc có sư đoàn trưởng sư đoàn 9 Nguyễn Thới Bưng và sư đoàn trưởng sư đoàn 5 Bùi Thanh Vân. Trận đánh An Lộc do toàn bộ đội hình sư đoàn 9 tấn công, một phần của chiến dịch Nguyễn Huệ.

Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam cho chiến dịch Nguyễn Huệ được chuẩn bị kỹ lưỡng: Sư đoàn 5, 7, 9; Trung đoàn bộ binh 24, 271;[18] Trung đoàn đặc công 429; 2 Trung đoàn 28 và 42 Pháo binh Miền; 2 tiểu đoàn Tăng thiết giáp 20 và 21 và Đại đội 33 độc lập; Đại đội 52 Cao xạ tự hành; 4 tiểu đoàn pháo phòng không. Đội hình tấn công An Lộc ban đầu trên 10.000 quân, sau tăng lên 15.000 quân (thuộc 40.000 quân của chiến dịch Nguyễn Huệ). Đóng ở phía sau bộ tư lệnh Miền, Quân Giải phóng miền Nam chỉ còn 3 trung đoàn dự bị cuối cùng: 201, 205 và 207, nhưng cuối chiến dịch chỉ điều được trung đoàn 205 tăng cường phòng thủ cho sư đoàn 7. Để yểm trợ cho chủ lực, có 63 đơn vị bộ đội địa phương ở các tỉnh đội cùng phối hợp chiến đấu, nhưng sự tham gia của du kích lại khá hạn chế do chiến trường diễn ra chủ yếu trong khu vực đô thị. Lực lượng này đóng vai trò chủ chốt về hậu cần, trinh sát cho lực lượng chính quy, một số đơn vị địa phuơng khác tham gia di tản dân sự.

Tổng quân số của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong xung quanh An Lộc theo ước tính của Mỹ gồm 35.470 người, trong đó khoảng 15.000 trực tiếp tấn công An Lộc:[19][cần số trang]

 Quân Giải phóng miền Nam Việt NamQuân số
Sư đoàn 59.230
Sư đoàn 78.600
Sư đoàn 910.680
Đơn vị pháo binh 693.830
Các đơn vị khác3.130

Tại bộ tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ, đã có nhiều ý kiến về cách đánh khác mang hiệu quả cao hơn để có thể đuổi đối phương ra khỏi An Lộc nhanh nhất có thể. Theo tướng Trần Văn Trà, ông đề xuất ý tưởng đánh thẳng vào Chơn Thành, loại An Lộc ra khỏi mục tiêu chiến đấu; mất Chơn Thành, QLVNCH ở An Lộc phải tự rút lui. Ý tưởng này bị bác bỏ vì quá mạo hiểm.

Binh lực Mỹ - VNCH

Phòng thủ An Lộc ban đầu có: Liên đoàn 3 biệt động quân, 3 trung đoàn bộ binh 8, 7 và 52. Tổng cộng khoảng 7.500 quân. Trong quá trình tác chiến được tăng viện thêm 25.000 quân nữa, trong đó có 1 phần được tiếp viện cho nội đô An Lộc.

Quân đội Hoa Kỳ hầu như không có quân tham chiến trên bộ mà chủ yếu sử dụng Không lực Hoa Kỳ để yểm trợ về hỏa lực. Trong chiến dịch, Hoa Kỳ đã huy động hơn 1.000 phi cơ và trực thăng các loại, thực hiện 12.115 phi vụ ném bom, 6.473 phi vụ trực thăng và 268 phi vụ B-52 rải thảm, ném hơn 40.000 tấn bom các loại.

Trước Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa có nhiều lợi thế: bộ binh phòng thủ trong đô thị nên có lợi thế địa hình, và có cả ưu thế về trang thiết bị với sự yểm trợ mạnh từ Không lực Hoa Kỳ.

Chú thích

  1. ^ "Gặp mặt các nhân chứng lịch sử Chiến dịch Nguyễn Huệ giải phóng Lộc Ninh"baobinhphuoc.com.vn. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  2. ^ "Tưởng nhớ Trung tướng Nguyễn Thới Bưng: Thước đo người lính là ở chiến trường"sggp.org.vn. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  3. ^ "Richard Tallman, Brigadier General, United States Army". The Virtual Wall. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  4. a b Willbanks, James (1993). Thiet Giap! The Battle of An Loc, April 1972 (PDF). U.S. Army Command and General Staff College.Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  5. ^ "Theo vết xích xe tăng"tapchicongthuong.vn. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2024.
  6. a b c Thi, Lam Quang (2009). Hell in An Loc: The 1972 Easter Invasion and the Battle that Saved South Vietnam. University of North Texas Press. ISBN 9781574412765.
  7. a b Ngo, Quang Truong (1980). The Easter Offensive of 1972 (PDF). U.S. Army Center of Military History. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2020.Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  8. ^ Tucker, Spencer C. (2011). The Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History (ấn bản thứ 2). ABC-CLIO. tr. 51. ISBN 9781851099603.
  9. ^ Hồ sơ cục Quân y: Chiến dịch Nguyễn Huệ 4/1972 - 1/1973: 13.412 thương binh chiếm 26,83% quân số; trong đó đợt 1 là 6.214 chiếm 13,42% quân số. Số tử vong hoả tuyến toàn chiến dịch được ghi nhận là 3.961 chiếm 7,92% quân số
  10. ^ https://books.google.com.vn/books?id=yQTm8SnzPxsC&pg=PA187&dq=an+loc+arvn+2,280&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjFrbPnirTPAhUdR48KHcKSAisQ6AEIGzAA#v=onepage&q=an%20loc%20arvn%202%2C280&f=false
  11. a b http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Buc-thu-gui-tu-ben-kia-chien-tuyen-340599/
  12. ^ An Lộc là tỉnh lỵ tỉnh Bình Long thời Việt Nam Cộng hòa, nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước
  13. ^ Đợt 1 là cuộc tấn công Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Quân khu I của Việt Nam Cộng hòa vào hạ tuần tháng 3. Đợt 2 là mở mặt trận Bình Long thuộc Quân khu 3 vào thượng tuần tháng 4. Và đợt 3 là cuộc tấn công Kontum và Pleiku thuộc Cao nguyên Trung phần Quân khu 2 vào trung tuần tháng 4 theo chiến lược "đốt giai đoạn". - Andrew Wiest, ed. Lâm Quang Thi. Rolling Thunder In A Gentle Land. Chapter 6. Oxford: Osprey Publishing, 2006
  14. ^ Nguồn: Bách khoa Quân sự 2004
  15. ^ Nguồn: Lịch sử bộ đội Tăng-Thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam và Quân khu 7
  16. ^ Hồi ký Đời Binh nghiệp, Chương V, tác giả Thượng tướng Nguyễn Thế Trị
  17. ^ Bộ Tư lệnh miền-Hồ Sĩ Thành, Trần Thị Nhung-Nhà xuất bản Trẻ
  18. ^ Trong quá trình thực hiện chiến dịch, 2 trung đoàn 24 và 271 tổ chức thành đoàn C30B, hay còn gọi là Đoàn Bình Long
  19. ^ Source: Major General James F. Hollingsworth, "Communist Invasion in Military Regional III," unpublished narrative, 1972. (Microfiche Reel 44, University Publications of America: Records off Military Assistance Command, Vietnam.)