Nhớ ngày xưa mà ĐẮNG LÒNG..
CÒN GÌ ĐỂ
""NHẮC NHỚ NHAU CHĂNG""..
Chỉ biết "nhìn người và người nhìn lại mình"..
Thấy gì ở Hiện tại và TƯỞNG TƯỢNG ở TƯƠNG LAI..
TUỔI TRẺ bây giờ ra sao ????
Trăn trở mà tan nát LÒNG..
CO THAT NHIEU ; BIET BAO LA CANH DAU THUONG CUA SAU NGAY 30.04.1975 . TRONG DOI NGUOI , LAM SAO CO THE QUEN DUOC CHU ! THUA ANH NGO VAN QUY VA THUA HAI CHI : CHI PHUONG HONG QUE VA CHI TRANG THANH LAN ??
Chiếc huy hiệu trên mũ xanh của anh Quy khác chiếc huy hiệu trên mũ xanh của tôi xưa đó. Tôi cũng ở binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt VNCH. Huy hiệu trên mũ xanh của tôi là một cánh dù trắng trên nền tròn màu đỏ. Tôi cũng chẳng được hân hạnh có được chiếc huy hiệu trên cánh tay phải giống áo anh. Áo tôi chỉ giống được áo anh ở cánh tay trái, có Huy hiệu Con Cọp phóng mình với ba làn sấm sét trên nền một hoa dù trắng. Lạ thiệt.CIDG -Biệt kích quân(trong đó có thông dịch viên), nhất là ở các trại LLĐB thì không đội mũ beret. Lạ thiệt!
CHUNG EM XIN GUI LOI CHAO DEN HAI CHI : CHI PHUONG HONG QUE CUNG CHI TRANG THANH LAN VA NGUOI ANH LINH CHIEN NGO VAN QUY CUA LUC LUONG DAC BIET BINH LONG CUA QLVNCH . NHUNG QUI ANH LINH CHIEN RAT NHAN BAN VA NHAN VAN CUA QLVNCH . THAT SU RAT LA TRONG SANG DUNG CAM HIEN NGANG VA THAT LA OAI HUNG LAM . CHUNG EM VAN LUON LUON KHAC GHI SAU MAI . NHUNG TAM LONG THAT LA QUA CAM VE SU CAO CA CUA NHUNG QUI ANH LINH CHIEN VNCH ; DA HY SINH BIET BAO LA GIAN NGUY VE GIAN KHO . VI CHINH NGHIA CUA CAC QUI ANH . DA DANH HET CHO TO QUOC DAN TOC VN VA CHO DONG BAO SAI GON CUA MOT MIEN NAM VN THAN YEU . TRONG SUOT THOI GIAN DAI 20 NAM CUA MOT MIEN NAM VN THANH BINH AM NO TU DO VA HANH PHUC . SAU CUNG CHUNG EM XIN KINH GUI LOI CHUC THAT NHIEU SUC KHOE AN LANH HANH PHUC AN VUI . DEN ANH NGO VAN QUY CUA LUC LUONG DAC BIET BINH LONG CUNG HAI CHI : PHUONG HONG QUE VA CHI TRANG THANH LAN ......
Xin hỏi anh Qui cho biết, vào năm 70 anh có về C3 biên hòa không, nằm sau Quân đoàn 3 với sự chỉ huy của Đại tá Nguyễn thành chuẩn, tôi cũng ở bên biệt kích Mỹ lúc giãi thể, anh có thể cho biết năm được không, tôi vào biệt kích tại trại Hồ ngọc Tảo ( Thủ đức ) vào năm 69 chuyển trại tới Long Hải học thêm một khóa rồi thuyên chuyển về B.16 trại Bí,Trảng sập, anh nói chuyện với phương hồng Quế với Trang thanh Lan tôi không hiểu chút nào, vì tôi cũng ở bên Biệt kích.
Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ, còn gọi là "The Big Red One", đã đến Việt Nam vào
năm 1965. Đơn vị này là sư đoàn bộ binh chính quy thứ hai của Lục quân Hoa Kỳ được triển khai đến chiến trường này.
Những nơi sư đoàn này đóng quân và hoạt động chủ yếu nằm ở Vùng chiến thuật Quân đoàn III (khu vực quanh Sài Gòn và các tỉnh phía Bắc). Các căn cứ chính bao gồm:
:
Trụ sở chính của sư đoàn được đặt tại đây trong một số giai đoạn, từ
tháng 2 năm 1966 đến tháng 9 năm 1967 và từ tháng 11 năm 1969 đến tháng 4
năm 1970.
Lai Khê
: Đây là căn cứ chính và là nơi đặt sở chỉ huy Lữ đoàn 3 của sư đoàn. Căn cứ này nằm dọc theo Quốc lộ 13 (Thunder Road).
: Các lữ đoàn khác cũng đóng quân tại những địa điểm này.
Khu vực hoạt động của sư đoàn tập trung vào các chiến dịch dọc theo hành lang Quốc lộ 13 dẫn đến Campuchia, khu vực Tam giác Sắt (Iron Triangle) và gần Đồn điền cao su Michelin,
nhằm chống lại các lực lượng chính quy của Việt Cộng và Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Sư đoàn đã tham gia vào nhiều trận đánh lớn, bao gồm Chiến
dịch Attleboro, Chiến dịch Junction City và Cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân 1968.
Sư
đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ ("The Big Red One") đã tham gia vào nhiều chiến
dịch và trận đánh lớn trong Chiến tranh Việt Nam, chủ yếu tại Vùng chiến
thuật Quân đoàn III (khu vực phía bắc Sài Gòn, các tỉnh Bình Dương, Tây
Ninh, Bình Phước).
Các trận đánh và chiến dịch nổi bật bao gồm:
Chiến dịch Attleboro
(tháng 9 - tháng 11/1966): Đây là một trong những chiến dịch tìm và
diệt lớn nhất của Mỹ ở Tây Ninh vào thời điểm đó, nhằm vào các lực lượng
chính quy của Quân Giải phóng miền Nam (Việt Cộng - VC).
Chiến dịch Cedar Falls
(tháng 1/1967): Một chiến dịch quy mô lớn với sự tham gia của 30.000
lính Mỹ và VNCH nhằm xóa sổ hoàn toàn "Tam giác Sắt" (Iron Triangle),
một căn cứ địa kiên cố của VC ở phía bắc Sài Gòn.
Chiến dịch Junction City
(tháng 2 - tháng 5/1967): Chiến dịch lớn nhất của Mỹ trong cuộc chiến,
với mục tiêu truy tìm Sở chỉ huy Trung ương Cục miền Nam (COSVN) tại
tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 1 Bộ binh đã đóng vai trò quan trọng trong chiến
dịch này.
Trận Xã Cẩm Mỹ
(tháng 4/1966): Một trận chiến đấu ác liệt kéo dài 14 giờ, trong đó Đại
đội C thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 16 Bộ binh, Sư đoàn 1 đã bị lực
lượng VC bao vây và tấn công dữ dội.
Trận Ong Thanh
(tháng 10/1967): Một trận đánh đẫm máu gần suối Ong Thanh, tỉnh Bình
Dương, nơi Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28 Bộ binh giao chiến dữ dội với lực
lượng lớn VC, gây thương vong nặng nề cho cả hai bên.
Chiến dịch Toàn Thắng
(bắt đầu từ tháng 5/1968): Một loạt các chiến dịch phản công và truy
quét quy mô lớn sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, nhằm đẩy lùi và
tiêu diệt các đơn vị VC/Quân đội Nhân dân Việt Nam (NVA) ra khỏi khu vực
Sài Gòn và các tỉnh lân cận.
Các trận đánh dọc Quốc lộ 13:
Sư đoàn thường xuyên hoạt động và tham gia nhiều trận đánh nhằm bảo vệ
tuyến đường huyết mạch này, còn gọi là "Thunder Road", dẫn lên biên giới
Campuchia, bao gồm các trận đánh tại Lộc Ninh và Dầu Tiếng.
Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ,
giống như hầu hết các đơn vị quân sự Mỹ khác ở Việt Nam, có sử dụng thông dịch viên người Việt Nam.
Việc
sử dụng thông dịch viên là rất cần thiết cho các hoạt động của quân đội
Hoa Kỳ vì rào cản ngôn ngữ và sự khác biệt về văn hóa. Những thông dịch
viên này đóng vai trò cầu nối quan trọng trong nhiều nhiệm vụ:
Liên lạc với Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH): Điều phối các hoạt động chung, huấn luyện và hỗ trợ các đơn vị QLVNCH.
Thẩm vấn tù binh:
Thông dịch viên đóng vai trò thiết yếu trong việc khai thác thông tin
tình báo từ tù binh Việt Cộng (VC) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (NVA).
Hoạt động dân sự và tâm lý chiến:
Giúp binh lính Mỹ giao tiếp với người dân địa phương trong các chương
trình bình định, hoạt động y tế và phân phát hàng cứu trợ, cũng như các
hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến.
Tuần tra và trinh sát:
Thông dịch viên thường đi cùng các đội tuần tra để hỏi đường, tìm hiểu
thông tin về hoạt động của địch từ người dân địa phương, và cảnh báo về
các mối đe dọa tiềm tàng.
Nhiều
thông dịch viên là công dân Việt Nam làm việc cho quân đội Mỹ, hoặc là
quân nhân trong QLVNCH được biệt phái sang làm việc với các đơn vị Mỹ.
Họ được đào tạo về tiếng Anh và các thuật ngữ quân sự để có thể làm việc
hiệu quả. Vai trò của họ rất nguy hiểm vì họ thường xuyên phải tham gia
vào các hoạt động chiến đấu và là mục tiêu của đối phương.
Trại
Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ (US Special Forces - SF), còn gọi là trại
Polei Kleng (hoặc Plei Kleng), thường có một số lượng nhỏ cố vấn Mỹ đồn
trú cùng với lực lượng địa phương lớn hơn.
Vào những năm đầu khi trại được thành lập (khoảng năm 1966), thường chỉ có một "A-Team" (Toán A) của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ, bao gồm khoảng 10 đến 12 cố vấn Mỹ.
Lực
lượng chiến đấu chính tại trại là các đơn vị địa phương người Việt Nam.
Ban đầu, đây là các đơn vị Dân sự Chiến đấu Không chính quy (CIDG -
Civilian Irregular Defense Group), chủ yếu là người Thượng (Montagnard),
với quân số khoảng vài trăm người.
Về sau, khi các lực lượng Mỹ rút quân dần, trại được chuyển giao cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Cụ thể:
Tháng 8 năm 1970, trại được chuyển giao cho Biệt động quân Biên phòng (Border Rangers) QLVNCH.
Trong trận chiến vào tháng 5 năm 1972, khi trại bị tấn công dữ dội, lực lượng phòng thủ là Tiểu đoàn 62 Biệt động quân Biên phòng.
Vào thời điểm này, chỉ còn lại hai cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại trại và họ đã được di tản bằng trực thăng khi trận chiến ác liệt nhất.
Tổng
kết lại, số lượng cố vấn Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ luôn rất ít, trong
khi số lượng Biệt động quân hoặc lực lượng địa phương người Việt phòng
thủ trại lớn hơn nhiều, lên đến vài trăm người (khoảng 350-400 lính Biệt
động quân trong trận đánh năm 1972).
Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đã đến
vàongày 1 tháng 10 năm 1964và rời đi vàongày 3 tháng 11 năm 1971.
Các mốc thời gian cụ thể:
Đến Việt Nam:Đơn vị này được triển khai đầy đủ vào tháng 2 năm 1965, nắm quyền điều hành tất cả các hoạt động đặc biệt tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù các toán Lực lượng Đặc biệt đã có mặt tại Việt Nam từ những năm 1961 dưới dạng biệt phái tạm thời.
Rời đi:Liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt rút khỏi Việt Nam và trở về căn cứ Fort Bragg vào tháng 11 năm 1971.
Trong thời gian tham chiến, đơn vị này đã đóng vai trò trung tâm trong các hoạt động huấn luyện lực lượng địa phương và thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, tác chiến phi truyền thống.
No comments:
Post a Comment