*** Dấu binh lửa nước non như cũ …
“””///__________________________________
Không thể nào quên được
Người Thương Binh VNCH
Còn
nhớ lại những ngày tháng 4 năm 1975 (30 tháng 4, 1975), không biết sao
mà năm đó trời bỗng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết.
Mưa
làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người
lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Rang, Phan
Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.
Trong
cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa
học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo
cơn mưa, mịt mù đạn pháo.
“Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường, quân mạc vấn?
Cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi.
Bốn
câu thơ cổ trong bài ‘Lương Châu Từ’ của Vương Hàn (687-726) đã nói lên
thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên
mấy ai dám nghĩ tới chuyện trở về? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má,
đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến củ,
những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để
vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.
Tất
cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa
cũ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai
lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn
lửa đỏ.
Cuối
cùng, kẻ chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống
kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc
chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương
chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây
cỏ bên đường.
Tất
cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời mẹ bỏ con trong
gánh dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt
Minh và Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng
súng, cùng với bom đạn làm rách vở da thịt của quê hương.
Rồi
cũng vì người, vì tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái, mà dốc ngước cả tuổi
trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.
Đất
nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò
người lính Miền Nam, trong mưa bom đạn xéo não nùng. Rốt cục những người
nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của bọn
cộng phỉ bắc việt, ai nấy cũng đã trả xong cái nợ ‘da ngựa bọc thây’,
tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép
kín.
Trưa
30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, Miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương trên
sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mau, đã chính thức bị
bọn cộng phỉ bắc việt xâm chiếm và ăn cướp. Cũng từ giờ phút đó, khi mà
chiếc mặt nạ hòa bình của bọn cộng phỉ bắc việt đã cởi, để lộ những
khuôn mặt thật kinh tởm của các thây ma vô hồn, lạnh băng, tàn ác và
hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc Người
Lính VNCH.
Nhưng
than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường
vì đạn pháo của bọn cộng phỉ, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẵng, Phan
Thiết, Sài Gòn... bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng
lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.
Ai
chẳng một lần về với đất? Khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và
sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những
người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và
những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã
gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm,
Phan Thiết, Xuân Lộc ....
Và
ngay tại Sài Gòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị bọn
giặc cướp xâm lược từ bắc việt giết chết. Họ ở lại làm vật hy sinh cản
xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian,
một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ dân
tới lính, bình yên di tản.
Nay
thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những
bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn,
đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch
sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của
họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày.
Buổi
trước, khi bọn giặc cướp cộng phỉ bắc việt tràn vào, họ bị bỏ lại ở
những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu
phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng XHCN
quái thai bệnh hoạn, trước sự xa hoa thừa mứa của lũ mọi rợ cộng phỉ,
Việt gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, áo gấm về làng, mà
trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ
huy và đồng đội cũ.
Có
làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngã đoạn trường. Có làm dân
thời ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom
đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người Thương Phế Binh sau
khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ
bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại
còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về
đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời?
“Ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu
Là cầu đem người sang song
Hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường...”
Thân Phận Người Lính VNCH
Đọc
Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch
Ốc vừa được công bố, đã làm cho những người lính già của VNCH phải cười
ra nước mắt và thương xót cho những đồng đội, đồng bào suốt hai mươi năm
qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng ăn cướp của bọn cộng phỉ bắc việt,
mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay cộng phỉ gây
ra.
Những
luật lệ kỳ quái như cấm lính Mỹ không được bắn cộng phỉ, trừ phi chúng
tấn công trước. Không lực Mỹ không được dội bom vào xe của bọn cộng phỉ
khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn
công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không dội bom các phi cơ cộng
phỉ đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi cộng
phỉ, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia...
Chính
phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không
được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự,
quốc phòng cho bọn cộng phỉ biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền
Bắc, trên đường mòn hcm, hành quân Lam Sơn 719.
Đó
là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP Mỹ Phil
Golding thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ
Hoa Kỳ: “Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những
mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên
không thể tiêu diệt bọn cộng sản bắc việt được”.
Do
sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘đánh
không cần thắng’, nên dân chúng đã xuống đường, đả đảo mà báo chí thời
đó gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái
trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy,
Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Đốn “Hãy cút khỏi
VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích
này”.
Tóm
lại, qua cuộc chiến VN do đầu óc con buôn, chính quyền Mỹ đã đánh mất
tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ Mỹ
Kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55,000 chiến sĩ bị chết oan và
hơn 300,000 quân nhân các cấp bị thương tật.
Trong
khi đó, Người Lính VNCH, dù là một quân đội bất hạnh nhất thế giới,
theo báo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố vấn Mỹ
tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, chỉ có chết, tàn phế hay đào
ngũ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người lính chiến
trong thời loạn lạc.
Ngoài
ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VM đào ngũ, nhưng không phải
họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà gia nhập lực lượng Địa Phương Quân +
Nghĩa Quân, để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đình.
Sau
rốt tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231,508 tử sĩ và 95,371 phế
binh. Thương tủi nhất, là những ngày tháng sau đó cho tới khi Miền Nam
VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội gục ngã
trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn.
Nhiều
tử sĩ cũng như thương binh đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội
không thể làm gì hơn giữa chốn loạn quân. Chính binh chủng Nhảy Dù từ
ngày thành lập cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt lệ, bỏ lại xác
đồng đội tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn đã viết, khi
được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm mịt mù lửa đạn.
Trước
sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Miền Nam VN không phải tại chiến
trường, mà ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân
Đôn, La Mã, Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc
đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ khinh miệt, đối với một số người trong
cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để
bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng đồng bào và Quân Đội Miền
Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp bọn giặc cướp bắc
việt ngang ngược xâm lăng cưỡng chiếm VNCH.
Đề
tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương viết lách, đem
lên truyền thanh truyền hình, đó là Người Lính VNCH hèn nhát không chịu
chiến đấu nên bị mất tự do và người Mỹ khinh miệt.
Hai
câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ
sự thật đã xác nhận ‘không’. Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Miền Nam VN,
có đủ phương tiện tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương
vong, vẫn không thiếu những binh sĩ đào ngũ, bỏ chạy khi trận địa hỗn
loạn, vẫn có tham nhũng và trốn quân dịch pháp định. QLVNCH chỉ mới
thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị
chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu
phương, bạn địch.
Thế
nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất,
phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ... vậy mà họ
vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu
cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương.
QLVNCH
là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ, mạng
người Nam VN lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sài Gòn, trên các đại
lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng
nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975.
Như
sử gia Edward S.Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘Fifteen Decisive
Battle Of The World’ năm 1851 “Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là
những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bại”. Những gì
đã xảy ra tại Miền Nam VN, sau bao nhiêu năm bị bọn giặc cướp cộng sản
bắc việt cưỡng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa
Robert S.McNamara cựu bộ trưởng QP. thời TT Kennedy, đã giải thích một
chiều trong hồi ký của mình ‘In Retrospect-The Tragedy and Lesson of
VN’.
Nhưng
không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông
báo chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm
của phận lính bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times
Service, đã thay thế người nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là
hèn nhát, bỏ rơi đồng minh tháo chạy về nước trước sự tấn công của bọn
cộng sản bắc việt.
Họ
cũng nêu đích danh tên Henry Kissinger là kẻ đã bán đứng VNCH cho bọn
cộng phỉ bắc việt khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó
tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn Miền Nam VN sụp đổ.
Không
có gì tồn tại với thời gian trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề lố
bịch của tên Henry Winston chủ tịch đảng cộng sản Mỹ, đem diễn tại Hà
Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của tên Nguyễn Hữu Thọ,
chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi
Sài Gòn thất thủ: “Cám ơn báo chí và ký giả Tây phương, đã góp phần lớn
cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ”.
Đây
là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là
Harry H.Noyes, thay mặt những Người Lính VNCH, qua tác phẩm ‘Heroic
Allies’ nói lên vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã
bị bọn trí thức vô liêm sỉ, tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô
nhân đạo.
Sự
tuyên truyền lố lăng và cuồng ngạo của bọn Hà Nôi cùng những mặt mo
bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán ghét, sau khi VNCH chỉ còn trơ
lại bộ xương gầy đét, không còn gì để cho bọn Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành,
Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều hâu, bu tới rỉa rói như
lúc chợ còn đông khứa.
Trong
tài liệu đặc biệt ‘How Media Bias Distorts Our View of the World’ của
ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây
phương, quá mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel
Castro, trong lúc thẳng tay sỉ nhục bôi nhọ Tưởng Giới Thạch và chính
phủ Cuba lúc đó, tuy vô tình nhưng đã làm cho cộng sản tại hai nước này
chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN.
Lần
này do chính những thành phần được ưu tiên trang trọng trong xã hội lúc
đó, là những công tử tiểu thư đài cát của giới địa chủ, địa hào, thương
gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bóc lột
đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học
thành luật sư, bác sĩ, giáo sư, những thành phần mà tên tay sai ngoại
bang hồ chí minh và đồng bọn đảng cộng phỉ ở miền Bắc, chém giết tận
tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước vào năm 1954.
Nhờ
cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Miền Nam VN, những thành
phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do
lầm lạc, nghĩ rằng giặc cướp cộng phỉ tại Miền Nam VN là những người
bình thường, yêu nước, nên nổi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của
chế độ.
Tóm
lại, nhờ những tên trí thức mạt hạng này, mà bọn khủng bố cộng phỉ nằm
vùng sau ngày tập kết 1954, cộng phỉ chính thống từ Miền Bắc xâm lược,
kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu... trong bộ đội Hà Nội đang
chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cộng sản đệ tam
quốc tế.
Sự
độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở Miền Nam và các mạng lưới quốc tế,
khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cộng sản, của người Việt quốc gia
Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều
khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt
cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi bọn
cộng phỉ, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.
Từ
năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ
lửa máu ở hậu phương. Đây cũng là dịp ăn nên làm ra của những thông tín
viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật có kèm hình ảnh,
không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều,
nhằm bôi lọ những quân đội đang trực diện với cộng sản Bắc Việt, trên
chiến trường Nam VN.
Có
thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS
tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ tại một
làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin ‘ăn khách’, theo đơn đặt
hàng của thị trường Mỹ và Tây phương lúc đó.
Cũng
“nhờ” bọn báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, bọn khủng bố
phỉ quân cộng sản bắc việt thất bại thảm hại và nhục nhã, chết thảm khắp
nơi, đã bỗng dưng biến thành chiến thắng “chiếm” được ngay cả Tòa Đại
Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là bọn báo chí Tây
Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật
những hành vi khủng bố, giết người tàn bạo, man rợ của bọn cộng phỉ bắc
việt trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày di tản máu
lửa hận hờn 1975.
Người
lính VNCH vừa đánh chận bọn giặc cướp xâm lược từ phương Bắc, vừa chống
đỡ búa rìu truyền thông báo chí trong nước cũng như phong trào phản
chiến tại Mỹ và Tây phương, được liên kết bởi trí thức, sách báo và
tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ tất yếu của một dân tộc
hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận nhược tiểu.
Thương quá người Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa
Tất
cả hình như chỉ còn có kỷ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng
ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của
dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.
Mất
nước nhà tan, người lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu
sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù
ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn ở
đây là những thương phế binh xa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá
khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:
“Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh...”
(Tô Thùy Yên)
Ta
thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ
vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc,
đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không
biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành xử thế nào mà
muôn người như một, khiến cho người trong nước, già trẻ lớn bé, đều
nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghị Diên Hồng. Sau này mới
vỡ lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phận của kẽ sỉ
thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ
phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.
“Tôi không là tôi nữa,
từ khi được xuất ngũ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ...”
Thanh
niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên
hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau
khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế
binh sau khi được xuất ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn
tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê
thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật
là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều.
Ai
đã từng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm
người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt
lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên
các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất
trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang
lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời
oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật
không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:
Làm
người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm
manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn
bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ...
‘Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ...”
(Phạm Duy)
Nhưng
chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành
tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với
những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.
Ai
có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc
xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống? Có thương
không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo
đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn
trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng,
mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi
giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê
trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế
binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường.
Hai
mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nửa, thì
xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi,
máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do,
thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ
phía, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả tư bản và đảng phỉ quyền cộng
sản VN.
Nhưng
thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ
còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi... thế nhưng họ vẫn sống bèo
bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện
trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui
tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay
cả ngôi nhà của mình.
19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.
Thảm
họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về?
Có ai cầm được nước mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn
thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị
thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với
nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng
đồng đội và cũng hết hậu phương.
Một
số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh
viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng
may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba
Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp
công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp
lính bèo.
Cuộc
đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay.
Ba mươi bảy năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa
trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn
trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai
mất.
Nhưng
chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau
cũng đâu có khác gì. bóng ma chơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối.
Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy,
kể cả những cấp chỉ huy cũ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở
hải ngoại.
- Xin hãy thương lấy họ, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngã.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối.
-
Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn,
đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để
họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc
khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.
Ngày
xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi
chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng
phùng, kết lại mối duyên xưa:
“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già...”
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhưng
người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương
vừa ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người
bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị đầy mồ, lính bị
thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuộc sống. Thử hỏi trên thế gian
này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH
“Dấu binh lửa nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”
(Chinh Phụ Ngâm)
Cuộc
đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nỗi buồn thiên cổ, xin
hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ. Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những
vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đỡ tận tình “Thương Phế
Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH”, hiện đang sống kiếp trầm luân
rách đói, trong địa ngục VN.
(Sài Gòn trong tôi/ Mường Giang)
No comments:
Post a Comment