Wednesday, December 24, 2025

'Trở Về Chiến Trường Xưa' - Phạm Tín An Ninh

Trích đoạn lời giới thiệu của nhà văn Hoàng Hải Thủy (1933-2020) về bài viết 'Trở Về Chiến Trường Xưa' của PTAN:

Trở Về Chiến Trường Xưa

Posted on August 24, 2009 by hoanghaithuy

USVN

 Hơn ba mươi năm sau Ngày 30 Tháng Tư 1975, một số cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở lại thành phố Kontum, nơi đơn vị của họ từng chiến đấu nhiều trận oanh liệt đập tan những cuộc tấn công của quân xâm lăng Bắc Cộng; họ trở lại KonTum tìm thăm những phần mộ của những chiến binh đồng đội xưa đã nằm lại trong vùng đất này. Cựu sĩ quan Phạm Tín An Ninh, một trong số cựu quân nhân Sư Đoàn Bộ Binh 23, trở về Kontum chiến trường xưa, ghi lại những cảm nghĩ của ông về chuyến trở về đầy cảm xúc.

***********************************************************************
Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới – thành phố Pleiku. Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái “chốt”, nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. 

Món nợ máu xương không bao giờ trả được. Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh.

Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. 
Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.
Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.

Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.

Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. 

Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làng Tân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.

– Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.

Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD-6, đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vưc khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. 

Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.

– Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?

Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.

– Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.

– Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.

Tôi mỉm cười :

– Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.

Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :

– Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?

– Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời.

– Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?

Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa mình” tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :

– Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.

– À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?

– Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn. Một người trong chúng tôi trả lời.

Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:

– Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.

Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.

Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972.. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.

Năm 1978, chính quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em Trinh Sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.

Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:

– Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện

Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu môt đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào Bệnh Viện 2 Dã Chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T 54 làm nổ lực chính. Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. 

Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch.

 Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. 

Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liểu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.

– Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?

Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :

– Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.

Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc.

– Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.

Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về truớc.

Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo. Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo.

Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :

– Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước.

Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quí.

Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.

Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải toả áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. 

Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải toả, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh “tử thần”, mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.

Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTLTiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.

Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.

Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn, đảo mấy vòng, đáp thật nhanh, trút chúng tôi xuống cuối phi đạo rồi vội vàng bay lên trong đêm tối mịt mùng.

Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyền chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.

Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một lọat tiền pháo, chúng xua những chiếc T 54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau.

 Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu được từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. 

Chiếc T 54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn Xuân Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T 54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. 
Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa tan, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.
Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống, nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. 

Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân đựơc thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh đựơc điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.

Kontum bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào cuối mùa hè 1972 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. 

Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đức hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi – người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú.

 Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiều bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau. Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak. 

Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. 

Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào – món nợ máu xương cho họ.

Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.

Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngược về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫn còn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em – những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

Phạm Tín An Ninh

Friday, December 19, 2025

Tiệc Liên Hoan do Ông Đặng Ánh tổ chức 16.12.2024

Hình ảnh tiệc liên hoan quả phụ NKT tổ chức năm 2025 . 8 quả phụ và số lượng người dự đông hơn 40 người, quà cho mỗi người quả phụ 1.500.000 vnđ cho mỗi người.





 

Thursday, December 11, 2025

Where is Lao

Lào ở đâu?

Lào là một quốc gia không giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc và Myanmar, phía Đông giáp Việt Nam, phía Nam giáp Campuchia, phía Tây giáp Thái Lan và sông Mê Kông.

Vị trí gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông khiến Lào trở thành yếu tố quan trọng trong “Thuyết Domino” của Tổng thống Dwight D. Eisenhower nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Eisenhower từng nói với Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nếu Lào mất, phần còn lại của Đông Nam Á sẽ theo sau.” Trong ngày đọc diễn văn chia tay năm 1961, Tổng thống Eisenhower đã phê chuẩn việc CIA huấn luyện lực lượng chống cộng sản trên núi rừng Lào. Nhiệm vụ của họ: phá vỡ các tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh sang Việt Nam.

Những người kế nhiệm Eisenhower tại Nhà Trắng – John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và Richard Nixon – đều phê chuẩn việc tăng cường yểm trợ không quân cho lực lượng du kích, nhưng không công khai. Hiệp định quốc tế về trung lập của Lào năm 1962, được ký bởi Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Hoa Kỳ và 10 quốc gia khác, cấm các bên trực tiếp xâm lược Lào hoặc thiết lập căn cứ quân sự tại đây. Cuộc chiến bí mật ở Lào đã bắt đầu.


Lịch sử Lào

Trước Chiến tranh Lạnh, Lào đã nhiều lần bị các nước láng giềng can thiệp. Năm 1353, Fa Ngum thành lập quốc gia Lào đầu tiên có tên “Lan Xang” – Vương quốc Triệu Voi. Từ 1353–1371, ông chinh phục phần lớn lãnh thổ Lào ngày nay và một phần Việt Nam, Đông Bắc Thái Lan, đồng thời mang Phật giáo Theravada và văn hóa Khmer từ vương quốc Angkor (Campuchia ngày nay) vào Lào.

Qua nhiều thế kỷ, các nước láng giềng bị chinh phục đã phản công, và người Thái chiếm phần lớn lãnh thổ Lào từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Lào ngày nay được hình thành từ nhiều nhóm sắc tộc khác nhau với ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt.

Năm 1893, Pháp tuyên bố Lào là một phần của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Với Pháp, việc có Lào làm xứ bảo hộ là cách để kiểm soát sông Mê Kông – tuyến thương mại quan trọng của Đông Nam Á.

Ảnh hưởng của Pháp tại Lào suy yếu lần đầu năm 1945, khi Nhật chiếm đóng Lào trong những ngày cuối của Thế chiến II. Khi bom nguyên tử rơi xuống Nhật, Lào tuyên bố độc lập dưới chính phủ Lào Issara (“Lào Tự Do”) của Hoàng thân Phetsarath. Nhưng Pháp đã quay lại giành quyền kiểm soát năm sau đó.

Lào giành độc lập hoàn toàn năm 1954 sau chiến thắng của Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo trước Pháp tại trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Geneva sau đó chia Việt Nam thành hai miền và buộc Pháp từ bỏ quyền lợi ở Đông Nam Á. Hoa Kỳ không ký hiệp định này vì lo ngại rằng khi Pháp rút đi, Đông Nam Á sẽ rơi vào tay cộng sản.

Nội chiến Lào và Pathet Lào

Hoa Kỳ theo dõi sát sao khi Pathet Lào ngày càng được ủng hộ tại Lào mới độc lập. Pathet Lào là một nhóm cộng sản thành lập tại căn cứ Việt Minh năm 1950 trong thời Pháp. Họ phụ thuộc nhiều vào viện trợ của Việt Nam, lãnh đạo là Hoàng thân Souphanouvong – “Hoàng tử Đỏ”. Ông là con của một hoàng tử Luang Prabang và một thường dân, được giáo dục tại Việt Nam, trở thành môn đồ của Hồ Chí Minh và sau này lãnh đạo phe đối lập chống lại người anh cùng cha khác mẹ – Souvanna Phouma, Thủ tướng Lào nhiều nhiệm kỳ (1951–1954, 1957–1958, 1960 và 1962–1972). Phouma chủ trương chính phủ liên hiệp cân bằng giữa Pathet Lào và các lực lượng bảo thủ.

Quyền lực của Phouma rất mong manh. Dưới thời ông, quân chính phủ và Pathet Lào bắt đầu đụng độ ở vùng Đông Bắc giáp Việt Nam. Công khai, Tổng thống Kennedy tuyên bố ủng hộ việc “trung lập hóa” Lào – nhưng trên thực tế lại khác xa so với lý thuyết.


Đội quân bí mật của CIA

Năm 1960, CIA tiếp cận Vang Pao – thiếu tướng Quân đội Hoàng gia Lào, người dân tộc H’Mông – để làm chỉ huy đội quân bí mật chống Pathet Lào. Người H’Mông vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, sống ở vùng núi hẻo lánh Lào trong cảnh nghèo khó, và có truyền thống chống lại chính quyền. CIA đã khai thác lịch sử xung đột này để phục vụ mục tiêu của mình.

Vang Pao có kinh nghiệm chiến đấu chống Pháp và Nhật, được thuộc hạ ca ngợi vì dũng cảm. CIA khởi động Chiến dịch Momentum, trang bị và huấn luyện người H’Mông để đối đầu Pathet Lào trong cuộc chiến ủy nhiệm ngày càng mở rộng.


Chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ tại Lào

Chiến tranh trên bộ với quân Mỹ tại Lào không được tính đến. Tổng thống Kennedy viết từ năm 1961 rằng: “Lào… là một nơi cực kỳ bất lợi để tiến hành chiến dịch. Địa lý, địa hình và khí hậu đều là những trở ngại sẵn có.” Ném bom Lào được xem là cách an toàn hơn để cắt đứt tuyến tiếp tế cộng sản sang Việt Nam trước khi chúng được dùng chống lại quân Mỹ.

Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom Lào năm 1964, sử dụng máy bay AC-130 và B-52 mang bom chùm trong các phi vụ bí mật xuất phát từ Thái Lan. Theo Al Jazeera, Mỹ đã thả lượng bom tương đương một máy bay đầy bom mỗi 8 phút, 24 giờ mỗi ngày, suốt 9 năm.

Mục tiêu chính là phá vỡ tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh và tại Xépôn – ngôi làng gần căn cứ không quân Pháp cũ, nay do Bắc Việt kiểm soát. Năm 1971, Xépôn là mục tiêu của Chiến dịch Lam Sơn thất bại, khi Mỹ và Nam Việt Nam tìm cách chặn đường mòn Hồ Chí Minh.

Hậu quả và di sản

Đến năm 1975, một phần mười dân số Lào – khoảng 200.000 dân thường và quân nhân – đã chết. Gấp đôi số đó bị thương. 750.000 người, tức một phần tư dân số, trở thành người tị nạn – bao gồm cả tướng Vang Pao. Tài liệu giải mật cho thấy 728 người Mỹ chết tại Lào, phần lớn là nhân viên CIA. Cuộc chiến bí mật ở Lào, hay Nội chiến Lào, đã tạo tiền lệ cho một CIA ngày càng quân sự hóa, có quyền tham gia các cuộc xung đột bí mật trên toàn cầu.

Tại Lào, di sản bom Mỹ vẫn tiếp tục gây thảm họa. Từ 1964 đến nay, hơn 50.000 người Lào đã chết hoặc bị thương vì bom Mỹ, 98% là dân thường. Ước tính 30% số bom thả xuống Lào không nổ khi va chạm, và trong những năm sau khi chiến dịch ném bom kết thúc, 20.000 người đã chết hoặc bị thương bởi khoảng 80 triệu quả bom còn sót lại.

Năm 2016, Tổng thống Barack Obama trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên thăm Lào. Ông cam kết thêm 90 triệu USD viện trợ để loại bỏ bom chưa nổ, ngoài 100 triệu USD đã chi trước đó. Công việc rà phá bom vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Wednesday, December 10, 2025

Nhớ nước non xứ Lào .

Trên chiếc phi cơ loại L 20, do phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu và một Ðại tá Mỹ ngồi băng giửa. băng sau tôi và Nguyễn thái Kiên; khoan sau là 2 túi dù, đựng  hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc có lẻ sau hơn 1 năm, từ Tiểu đoàn 5 ND đổi về SLL, sống gần gia đình. Nên bửa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng.?

Sau khi học xong khóa 58 B nhảy dù (chỉ có tôi từ BÐQ về, chưa có bằng dù phải đi học thôi) Chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Nguyễn văn Hy và tôi, lên Trung tâm huấn luyện Long-Thành để nắm toán trưởng. Cũng nên nói rỏ là: các toán viên đã được huấn luyện thuần thuật rồi. Mổi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9 Việt nam (hoặc Nùng) Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ để đặt. Nhưng chúng tôi dùng tên toán 1 toán 23, 45 vân vân. Mấy tuần sau Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5. Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ thêm về các loại mìn bẩy, và phá hoại; cùng xữ dụng các loại vũ khí của nước khối cộng-sản Học, điều không tiền tuyến, hướng dẩn phi cơ, chỉ điểm oanh kích. Câu dây trực thăng. Riêng về các bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt, như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như các bài học chiến thuật, dạy trong các quân trường. Riêng phần tôi đã qua 2 khóa: Căn-bản Biệt động quân và Hành-quân Biệt-động-Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi.

Chúng tôi cũng được thực tập hành quân vùng sông Lá buông, mổi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong toán ăn khớp với nhau. Về đội hình di chuyển hay vị trí và xữ dụng vũ khí của mỗi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý, không có ý kiến gì dị biệt giữa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one-zero (Team-Leader) one-one; one-two; Ðội hình nếu hành quân 6 người thì toán trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì mấy chuyến thực tập, tôi vẩn ở vị trí như vừa nêu, các toán trưởng khác cũng làm như thế Nhưng có điều khi liên lạc với phi cơ, thì one-zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dể hiểu thôi, vì không có người VN ngồi tiền-không-sát. Nghiểm nhiên người cầm ống liên hợp, điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây Phe ta muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.

Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long thành, từ chổ ăn, chổ ngũ, cũng có người lo, quân trang quân dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy, thì họ đâu có chiụ Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt, nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ lại lúc ở Biệt-động-quân, mấy tên cố vấn dể thương kể gì. Sợ Sĩ quan chúng tôi ra phết .Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung-úy Trần-thụy-Ly, sĩ quan lien lạc, hướng dẩn, để trình bày lên thượng cấp Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ, tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngôi trên phi cơ tháp tùng với Ðai-tá Hồ-Tiêu để đi qua Lào.

Ðược biết Sở-liên-lạc có nhận yểm trợ cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu-đoàn của Hoàng-gia Lào. Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây ? Lúc ở phi trường Tân sơn nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với phi hành đoàn, là phi cơ sẽ ghé Ðà nẵng, để cho vị Ðại tá Mỹ xuống, và  đổ xăng luôn, Xong ra Ðông Hà đón 1 sĩ quan Lào, sau đó phi cơ sẽ đáp ở Khe-sanh, và vị sĩ quan Lào này sẽ hướng dẩn phái đoàn qua Tchépone.

Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc, vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu thuyền qua lại rất rỏ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho, Hai ông Ðai-tá vẩn rì rầm nói chuyện. Lúc này tôi bổng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị cũ một chút nhé .!

Lúc tôi nhận được công điện của Bộ TTM về SLL. Tôi nghỉ chắc có lẽ do ông NQT, tham mưu trưởng SÐ dù xin đây. Thôi thì phen này, sẽ giã từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964 các đại đôi biệt lập BÐQ tuy  là đã sáp nhập lại thành Tiểu đoàn rồi. Nhưng các đại đôi vẩn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu, ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa đưa sĩ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẫn phải chờ, Khoảng gần tháng, sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị một trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình long xuống Lai-khê. Ðại đôi tôi vừa ra khỏi quận Chơn thành hơn 1 cây số thì bị phục kích .Các đại đội đang đóng ở Tân Khai,Tàu ô, vội đi tiếp viện, liền bị chiến thuật:’công đồn đã viện’ của địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu đoàn chết mất 5 sĩ quan, đại đôi tôi SQ,1 chết 1 bị thương; phần binh sĩ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đội tôi sau trận này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sĩ quan xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sĩ khóc than, chồng vừa chết, đại đội như còn chưa ổn định tinh thần, Ở hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đội trưởng bị thương, Thiếu úy Tùng trung đội trưởng, trung đội 1 chết. Ðại đội chỉ còn tôi là sỉ quan; nên kiêm luôn Ðại đội trưởng. Do đó tôi về trình diện SLL trể hơn 3 tháng. Một phần tôi dùng dằn không muốn rời đại đội, vì đại đội này, là đơn vị đầu tiên, tôi phục vụ khi mới ra trường sĩ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt .Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu cứ đại đội, vì lạ chổ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngũ được. Bổng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy trong quả tim này .. .. ..sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm hể lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuộc có bấy nhiêu câu hát đó Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sỉ Khiêm, thường vụ, xem ai hát, mà sau hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi .Ðược biết đó là binh I Chắc ,sở dỉ hát suốt đêm, là vì các binh sỉ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ sỉ Chắt gác thế. Nó người Sông-ông-Ðốc, (Cà mau), tướng tá dạm vỡ; nhưng hiền lành chẩt phác. Trong đại đội nó tải đạn, cho súng trung liên. Tôi để ý, đạn nó giử luôn sạch sẻ, balô ngoài đạn trung liên ra, chỉ có võng; một cái khăn rằng lớn, vừa dùng để làm mền, vừa dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo xấy. Tuy nó không phải ‘tà lọt’, nhưng mỗi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia sớt đồ ăn cho nó. Một kỹ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại, nhiều lần như muốn hỏi điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chù chừ mãi một hồi lâu nó mới mở miệng: Thiếu-úy: Phải con gái tụi nó có 2 lổ, 1 lổ tiểu và một lổ lửa, Nếu không biết  .. ..nhằm vào lỗ lửa thì phỏng cu phải không ? Tôi định cười thật to,vì sự khù khờ của nó, vội kềm lại được, bèn hỏi: Ai nói với Anh như thế. Nó đáp Thượng sỉ Khiêm. Tôi bảo Thượng sỉ Khiêm gạt anh đó. Mà mỗi lần đại đội về Bình-long, sao anh không đến Hàng-keo, đi chơi cho biết. Tôi nghỉ hôm nào đai-đội về Bình-long chắc tôi phải dẫn nó đi một chuyến quá. Tôi bèn giải thích thật cặn kẻ cho nó biết.

Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước một tiệm hũ tiếu duy nhứt ở quận Chơn thành. Con Lài con nhà lao động, mà nước da trắng bóc, thân hình nẩy nở, thật cân đối. Tôi thấy các HSQ Biệt-động-quân, HSQ Chi khu, có cả một vài SQ chi khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù-khù có ông Cù độ mạng. Nó lại thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mổi chiều, nếu đại đội không hành quân xa thì nó ra nhà con Lài giúp đở, những gì nó làm được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy chớ không phải đi, thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới Ông gìa nó từ Cà mau lên xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ có Ba nó và đại đội 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ mặc vừa được cái áo mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải quần ‘trây-di, giày bốt-đờ-sô’. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10 lít rượu đế. Tôi thắy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui, mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt.

Thế mà, 2 tuần sau, thắng Chắt bị tử trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn-thành, không đưa về Càmau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ tử sỉ khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghỉ, cử chỉ này, chứng tỏ một niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó. Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ. Chưa từng có người yêu, dẩn đi dạo phố. Chưa từng có một thời làm học trò, biết ghi lưu bút ngày xanh ... ..Còn, còn rất nhiều mất mát thiệt thòi khác nửa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên, của chị Dậu, chị Tình, ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.

Xin lổi, đã làm quý vị vài giây dao động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.

Phi cơ đáp phi trường Khe-sanh, sau khi đón vị sĩ quan Lào tại Ðông hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly, qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẳn rồi. Khe sanh cách Ðông hà không xa, mà thời tiết và cảnh vật thật là cách biệt, Cây cối xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa, mà không gian bao trùm một màn sương mỏng . Không khí thật dể chịu .Phi trường Khe sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB. Khe sanh nằm trong quận Hương hoá, nơi đây trồng rất nhiều cà phê.Từ trại theo quốc lộ 9, qua quận Hương hoá, qua Lao bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp thuộc) qua Làng vây; rồi mới đến biên giới 2 nước.

Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân khu Tchépone niềm nở đón tiếp và đưa vào phòng thuyết trình. Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài Vị sỉ quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp.Tôi phải lôi vốn liếng Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco-Chinoise ra để theo dõi buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn-vị địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất Tiểu đoàn 33 này mà thôi.

Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ tiêu quay về Khe sanh và trở về Sàigòn cùng buổi chiều hôm đó. Buổi tối, không biết là có dịp lễ nào cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái đoàn. Máy phát điện được chạy lên sáng khắp doanh trại. Tôi thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng  tập trung về tham dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự. Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất loại áo quần bó sát, mà ta thường trộng thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25 là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các sĩ quan, và binh sĩ, thì da dẻ trông trắng trẻo, có lẽ họ là người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có một món như là bê thui. Chắm một thứ nước gì sền sệt bỏ vào muổng, rồi khum người lại mời chúng tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ. Món nước chấm này là phần bên trong ruột non cuả bò, pha với một loại nước mắm của Lào, Do đó để không bị các cô mời tôi phải có một món khác ngậm trong miệng để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái-lan và Cao-miên. Các cô cũng lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang 2 tay cứ xoay xoay, cũng dể. Không biết có phải phong tục Lào theo mẩu hệ hay không mà các cô tự do vui chơi đến sáng.

Thời tiết lạnh lạnh, không khí thật dể chịu, Mặc dù hôm qua trải qua một chặng đường xa, sáng nay dậy chúng tôi thấy thật khỏe , không thấy mệt .Trung-úy Ly cho biết ,nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở một tiền đồn ,với binh sỉ hoàng gia Lào ,để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng quân xa mổi đêm ( Thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban ngày )Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch mổi đêm .Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ Mỹ oanh-kích dử dội .Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm nửa .Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại ,thì chúng tôi thi hành công tác .Toán chúng tôi gồm Trung-úy Ly ,Kiên ,tôi và 2 HSQ truyền tin .Nhưng mổi lần gửi công điện cần quay đầu bò ( Bộ phận phát điện ) bên phía Lào, đều tăng phái 2 binh sỉ qua làm công tác này .Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi chơi khoẻ ru .Mổi buổi sáng,bên Bộ-chỉ-huy Tiểu-đoàn Lào đều mang qua cho bên Việt-nam, một rổ xôi .Xôi họ thổi khô , nhưng rất mềm, và dẻo .Nơi đây không có chợ búa gì cả .Ngày nào ngán xôi ,thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội ,ăn với cá mòi Sumaco .Buồn qúa ,tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi .Nó không chiụ đi ,cứ ngồi chửi :là nó bị ‘Ðì’,nên đày nó qua đây.Vì lúc cả nhóm đòi phải được quyền chỉ huy ,nếu không được; tôi và nó ,xin được trở về đơn vị cũ .Tôi không cho là điều nó nghỉ là đúng .Tánh thằng Kiên là vậy ;nó nóng nảy nhưng trực tính ,việc gì nó cho là không đúng ,là nó chưởi toáng cả lên .Bất kể là quan lớn, hay bé .Phần tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chưởi ‘’.Số ngày mày đi lính, không bằng ngày tao bị lậu ‘’.Mà sự thật : Năm 1954 nó có tham dự trận Ðiện biên phủ .Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon ‘quan ba ‘ ‘quan bốn ‘,còn nó vẫn làm ‘ quan một ‘dài dài Với nó, mà đem chuyện ‘’thi hành trước,khiếu nại sau ‘’thì còn khuya, nó mới làm .Vì tính khí nó như thế , nên sau này nó bị đổi ra bộ binh .;làm việc ở Phòng 2 , Quân đoàn I .Thỉnh thoảng có đi công tác về Ðànẳng, tôi có ghé khu phòng vãng lai SQ độc thân thăm nó .Bây giờ nó bất mản còn dữ nữa .Cho là đuổi nó ra khỏi ‘nhảy dù’ là làm nhục nó .Thời gian sau ,nghe nói nó tình nguyện vào Sở Bắc. Kinh-Kha lúc sang Tằn, là thanh niên trai tráng .Còn thằng Kiên thì một vợ 4 , 5 con rồi .Mà nghỉ cũng lạ ,thanh niên trai trẻ tình nguyện thiếu gì .Sau lại chọn nó làm chiến sỉ vô danh .Biết rằng, ra đi sẻ không có ngày trở lại .Bị tù  gần 20 năm  .Vượt biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bão lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt-nam .Các bạn nào chưa quen biết nó ,mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hảy thông cảm .Chúng ta mà va vào trường hợp như nó, sợ bây giờ chắc đã theo ông bà, ông vải từ lâu.Rồi thì Ông Trời cũng có mắt .Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chìu chuộng, và lo cho nó hết mình  Ðền bù lại những ngày tù đày của nó..Con gái riêng của bà ,cũng kính trọng thằng Kiên như cha ruột .Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả đây Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5 , 7 phần rồi .

Kiên ơi ! Nếu mày có đọc tới đây, thì tụi mình bây giờ ,  còn gì nữa đâu :‘’.Chiều xuống êm đềm’’nghe Kiên .

Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt mình .Làng Husane  chỉ cách trại khoảng 1 cây số ,,nằm cạnh sông TChépone, dưới bóng rợp mát của của những tàng dừa .Ðường làng thật sạch sẻ ,phần nhiều là nhà sàn ,khác với người Miên và người Thượng, họ không nuôi trâu bò, và gia súc dưới sàn .Dân làng thật cởi mở, hiếu khách , vui vẽ, mời tôi leo thang, lên nhà uống nước .Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà ;làm việc nhà ,hay dệt vải .Khung dệt được đặt dưới sàn nhà .Các cô quỳ, và dùng tay để phóng con thoi qua lại .Phần nhiều mọi nhà đều tự dệt vải để dùng .Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi nhìn các cô dệt suốt buổi ,chỉ biết cười ,và làm điệu bộ ra dấu thôi ,có biết tiếng Lào đâu mà nói .Buổi chiều tôi theo mấy HSQ truyền tin đi tắm sông .Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng không sâu ,và bờ sông lài lài ,nên rất dể dàng lên xuống .Các cô cũng không e then, khi tắm chung với người khác phái .Có điều theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy .Khi các cô muốn xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu ,rồi ngồi hụp xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào bờ. Có nhanh mấy đi nửa ,thì tụi tôi cũng nhìn thấy đũ hết rồi .Có thể đến gần , miển là vẩn ở dưới dòng ,nước sông không trong lắm ,nhưng những gì mình muốn thấy, thì vẫn thấy rỏ ràng Họ đùa giởn thật vô tư .Khi muốn lên bờ ,thì một cô quay người ngược về chúng tôi,chạy nhanh lên bờ ,choàng khăn xong ,từ đó ném khăn xuống cho các bạn .Mấy thuở mà nhìn được một lần 5 , 7 , sơn nữ Phà-ca cùng tắm sông một lúc ,phải không các bạn .

Chưa có công tác , vẩn ngồi chờ .Tôi và thằng Kiên qua Khe-sanh chơi . Quốc lộ 9 đoạn này còn rất tốt, chưa bị chiến tranh tàn phá .Rừng cây cổ thụ cao ,to,  2 bên đường, khiến con đường mát lạnh .Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ thụ 2,3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì .Nếu đường sá thông thương, thì giờ này làm gì còn .Cũng trên đoạn đường này lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trỉ .Lúc nhỏ xem hát bội ,thấy đào kép có vắt lông trỉ trên mảo ,giờ đây mới thấy tận mắt .Nó thường đi từng cặp .Thấy xe đến gần ,nó chỉ bay tới một đoạn ngắn, rời đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới bay, suốt một đoạn đường dài như vậy .Nếu chúng tôi dừng xe ,đứng nhìn ,thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp .Thỉnh thoảng cũng thấy một loại chim như con công ,nhưng không to và đẹp bằng .

Quận Hương-hóa chỉ có 1 con đường độc đạo .Cũng có một vài tiệm tạp hóa ,kiêm luôn bán càphê .Hàng hóa khá đắt ,vì phải thồ từ Ðông hà lên .Vì là nơi sản xuất nhiều càphê ,nên tôi có hỏi về càphê cứt chồn .Ông chủ quán cho biết là :để đi nhặt những hạt càphê do chồn ăn rồi bài tiếc ra ,thì biết bao lâu mới được 1 ký .Riêng ông thì ,vì có trồng càphê ,những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín ,rụng xuống đất .Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt càphê vữa đi , nhặt những hạt này về rửa sạch phơi khô .Vì có cùng một độ già ,độ chín, giống nhau ,nên hương vị khác hơn những loại khác .Thỉnh thoảng qua Khe-sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng.Buổi cơm chiều đó chúng tôi được bồi dưởng thịt tươi .

Hơn 2 tuần không có việc gì làm ,bắt đầu thấy buồn ;thì có công điện , 2 đứa chúng tôi phải về trình diện SLL ngay .Thằng Kiên nó mừng kể gì .Chiều ngày hôm sau, là chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi .Ðược biết là chúng tôi trở lên lại Long-thành ,các anh Bích , Thụ và Hy đã lên trước rồi .

Hai tuần vừa qua ,xem như vừa được đi du lịch .Cám ơn dân làng Husane ,cám ơn Tchépone ,cám ơn những sơn nữ Phà-ca, đã cho tôi 2 tuần lể khó quên .

Chúng tôi lại trở về toán củ .Bây giờ, sau khi đã được bàn cải ở cấp cao, giửa 2 bên Mỹ-Việt .Tiếng Counterpart được thay thế tiếng Advisor .Nghiã là không có ai chỉ huy ai .Hai bên quyền hạng như nhau .Chúng tôi bắt đầu nhận công tác hành quân .Bắt đầu những chuyến đi ,mà ‘ mười lần đi ,có đôi ba lần không trở lại ‘.

Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại vùng này .Những hố bom B 52 chi chít .Ðường quốc lộ 9 đã bị cày nát nhiều đọan .Làng mạc tiêu điều .Thật kinh khủng .Không biết những Sơn nữ Phà Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời nào.

                                                                                             Lê Minh .