Tuesday, January 31, 2023

Tình người lính Quân Y Biệt Động. - Phương Lâm

Thương anh quá người chiến binh Biệt Động

Trước đạn thù bất luận Hạ Thu Đông

Trấn biên cương thề quyết tử một lòng

Đem an bình cho non sông xã tắc.

 

Nêu chí dũng vẫy vùng trong lòng giặc

Biệt Động Quân tiếng “SÁT” dậy trời Nam

Chiến công anh rực rỡ ánh huy hoàng

Quân hùng sữ nét son trang hiển hách.

               Tô đậm nét ân tình.

Người đàn ông  đoán chừng ngoài ba mươi tuổi, nước da  xanh mét, hàm râu tua tủa, mặt mày hốc hác bệnh hoạn, bận quần nhà binh bạc màu, áo sơ mi không biết màu trắng hay nâu, lấm tấm dính nhiều vết mũ cây, lưng mang ba lô nhà binh bạc màu, hai túi hai bên rách toe, đứng tần ngần trước ngôi nhà nhỏ xinh xinh, miệng lẫm bẫm điều gì rồi xô cánh cửa gỗ  bước vào.

   Con chó mực từ đâu đó lao ra sủa inh ỏi nhảy chồm lên tấn công, ông đứng yên một chỗ, người đàn bà nhỏ con, tóc kẹp đuôi tôm, hai ống quần đen dạng lò xo rút cao lên nữa ống quyển nhảy phóc ra từ cánh cửa nhà bếp, nhìn dáng dấp người đàn bà, ông biết ngay người này không phải là dân ở đây, cũng giống như con chó mực, bà nhảy đong đỏng, chỉ tay vào mặt ông mồm la bai bải, tiếng hét the thé nặng trịch giọng Quảng Bình hay Nghệ An rung chuyển cả khu vườn.

 -  Ai cho ông vô đây, tưởng nhà không có người lẽn vô cuỗm đồ hả? Ăn mày cũng có tổ tiên ông bà, tại sao không về hương khói cuối năm mà còn lãng vãng vô đây định dỡ trò lơ xẹc hả?  Xéo mau! Xéo mau!  Không bà gọi Công an bây giờ.

   Người đàn ông đứng lặng người ngơ ngác không biết phải nói sao đành trả lời.

             -Thưa chị! tôi vào đây để hỏi thăm người quen.

Bà trợn trừng mắt quát:

             -Không ai chị em quen biết chi với ông thứ dân móc túi bến xe bến tàu ra khỏi đây mau.

Người đàn bà vung tay đẩy Ông ra cửa, phụ thêm sức cho bà con chó mực nhảy chồm theo nhe răng táp hụt mấy lần, chủ với chó bên xướng bên tùy giống nhau như khuôn rập.

   Ông bước thụt lùi ra, bà dóng ập cánh cửa gỗ, Ông bực bội đổi lối xưng hô.

           -Này bà thím, đây là nhà của tôi, vợ tôi tên Diệu, mấy năm nay tôi ở tù, mới được thả ra, tôi về nhà tôi, bà không hỏi lý do tại sao tôi vào đây, bà cho tôi là quân ăn cắp, bà nói nhà của bà. 

Mới nói ngang đó bà trợn to hai mắt nhìn người đàn ông bà ngắt ngang câu hỏi trả lời liền.

-  Ông là chồng cô Diệu hả, chồng từ kiếp nào chứ kiếp nầy thì không phải, Chồng cô Diệu tên Hát vợ chồng họ đã bán nhà này cho tôi rồi, được chưa, vào trộm đồ không được đặt chuyện nói linh tinh bậy bạ, thôi làm ơn xéo đi cho bà nhờ.

              - Tôi hiểu rồi cám ơn thím.

  Vợ chồng Diệu + Hát đã bán nhà cho bà ta, hai cái tên như tiếng bom nỗ điếc tai hoa mắt, máu nóng dồn lên não, người đàn ông hồn vía bay mất, mắt tối sầm lão đảo bước trên phố vắng chiều cuối năm. 

  Ông nghiến chặt răng cố dằn tâm nín lặng, nhưng sao nước mắt cứ trào ra, lồng ngực căng phồng khó thở, ông đành buông xuôi theo bản năng tự nhiên của thân xác, ông cho nó tự do, muốn khóc thì cứ khóc, ông khóc thảm thiết như lúc hạ huyệt người thân, khóc vì chua xót tình đời, khóc vì vở tuồng chồng vợ đã diễn ra ngoài suy nghĩ đơn thuần của ông:

  “ Em… nhận anh… làm chồng, hứa sẽ giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt đời em” …

  Đó là lời hứa trước đấng tối cao, của Diệu, của người con gái có học trong gia đình đạo đức, đã cầm tay nhau, trao nhẫn cho nhau, đã nhận ông làm chồng.

  Ông nghĩ mãi không ra, câu hỏi tại sao? Tại sao? Cứ xoáy trong não ông đau buốt.

  Người đi đường ngoái cổ nhìn ông, mặc kệ họ, ông khóc vì ông thương ông, thương tình đời tráo trở dồn ông vào ngõ cụt. Như đứa con nít, nước mắt nước mũi lòng thòng, đau buồn, căng thẳng đã tuôn chảy theo nước mũi, nước mắt, quệt vào tay chùi vào áo. 

Ông hỉ mũi lấy tay vốc vất mạnh xuống đường lỗ mũi thông thở nhẹ nhàng, tâm hồn trở lại thanh thản sau khi chạm đích tột cùng của khổ đau hụt hẩng, tất cả đắng cay đã rơi theo vốc nước mũi nằm đống trên mặt đường.

   Ông bước đi như trốn chạy không dám quay lại nhìn đống xú uế, như cơn lốc xoáy thổi qua cuốn theo mọi thứ còn lại hoang tàn xác xơ.

   Đi về đâu giữa chiều ba mươi tết, từ trại tù ra chỉ còn cái ba lô rách với bộ đồ tù sọc trắng sọc đõ đeo tòng teng sau lưng. Chiều hôm qua tới giờ chẳng có chút chi trong bụng, tinh thần suy sụp, tim nhói đau, vi trùng sốt rét đang thừa dịp tấn công, luồng rét nhức xương sống tràn ra chạy ngược lên đầu, chạy xuôi xuống hai chân, thân hình co rút cơn rét giật quặn thắt cơ bắp không thể bước thêm một bước nào nữa.                                      

  Ông tựa lưng vào trụ đèn đường run cầm cập rồi thiếp đi trong tột cùng mỏi mệt, ông nằm đó không biết đã bao lâu   tai mơ hồ nghe tiếng người nói, lúc xa lúc gần.

           -Hết chỗ chết rồi hay sao mà tìm tới trước cửa nhà tôi thế này. 

   Họ đá mạnh vào hông thử coi chết hay sống, cánh tay nặng nề Ông đưa lên giụi mắt, tiếng người đàn bà vui vẽ nói. 

May quá chưa chết, nhà cửa đâu không lo về, kiếm ăn giờ nầy ai mà cho.

Tay run rẩy mò túi áo trên ngực, móc ra tờ giấy đưa cho bà ta thều thào qua hơi thở:

- Tôi không phải ăn xin, tôi từ trại tù cãi tạo mới được thả về, giấy ra tù của tôi bà coi đi, tôi bị lên cơn sốt rét đi không nổi nên nằm đây, tôi quá kiệt sức vì hôm qua tới giờ không có chi trong bụng. 

    Bà cầm tờ giấy đi vào nhà một lúc sau ra lại với hai người con gái bà nói. 

  -Xin lỗi ông, thời buổi nầy chẳng biết tin ai. Vợ chồng cũng còn bán đứng nhau huống chi người lạ, chúng ta cùng cảnh ngộ, ông may mắn được về còn chồng con tôi đang nhốt ngoài Hà Nam Ninh, ông đứng dậy vào hiên nhà tôi ngồi nghĩ một lát đợi tàn nén nhang mời ông dùng tạm chén cơm, gia đình chật vật nhưng chiều 30 cũng cố gắng cúng lễ ngoài trời để xin bình an cho chồng con trong trại tù không biết ngày nào thả ra. 

      Mân cơm cúng được bưng đặt vào hàng hiên, Ông ngồi vào chiếc ghế mũ thấp bưng chén cơm múc mấy muỗng canh măng chan vào, gắp cục thịt heo kho tàu cho vào chén, Ông ăn chỉ chừng đó, đặt chén đũa xuống. Bà chủ nhà ngạc nhiên hỏi:

-Ông đang đói tại sao không dùng thêm.

  Ông thưa với người đàn bà tốt bụng.

 -Trong trại tù mỗi bữa ăn đơn vị chia cơm là muỗng, lâu ngày bao tử hẹp lại cơm ngon như thế nầy cũng không thể dùng nhiều hơn.

  Ông đứng dậy nói  

-Cám ơn bà đã cho bữa ăn, đây là bữa tiệc đầu đời của tôi, tôi xin ghi nhớ suốt đời. Tôi cũng cầu chúc cho Ông và các anh sớm thoát khỏi cảnh tù đày, lần nữa tôi xin cám ơn bà chúc bà năm mới mọi điều như ý.  

   Ông trở lại con phố vắng, bây giờ đầu óc tỉnh táo, giải phóng, đúng, Ông đã được giải phóng sạch sẻ, chỉ còn cái mạng, người không ra người ma không ra ma.

  Không thể nào quên được hình ảnh người đàn bà lúc chiều, mụ ta đã góp công giãi phóng đời Ông, ông vừa học trong trại tù, ưu việt của xả hội chủ nghĩa không có giai cấp, mọi người bình đẵng, thế mà mụ nầy coi ông là rác rưỡi, còn gán cho ông là loại lưu manh, móc túi, đầu đường xó chợ.

 Mới hội nhập vào xả hội này chưa đầy hai mươi tư giờ đã gặp chuyện oái oăm như vậy, còn lâu dài về sau không biết sẽ ra sao. 

   Ông đi lang thang để tìm chỗ ngũ, đến ga tàu, qua bến xe, người giải phóng coi ông là rác, nhưng ông không dám đặt mình nằm trên rác, đi qua nhiều đường phố nhưng không tìm được nơi nào gọi là an toàn có thế nghĩ lưng qua đêm, Ông chợt nhớ tới một chỗ chắc chắn nơi đó sẽ cho Ông một giấc ngủ ngon lành. 

   Đó là hành lang bệnh viện. 

    Thân hình ông chẳng khác gì xác chết biết đi, nên chẳng ai lưu tâm dòm ngó, hành lang bệnh viện dài hun hút đêm nay vắng lặng, có lẽ bệnh nhân đã về ăn tết, Ông đi quanh một vòng chọn  góc khuất để khỏi thấy ánh đèn vàng hiu hắt của mấy bóng đèn đường quanh bệnh viện, bóng đèn đường của bên thắng cuộc cũng khác thường không chiếu sáng mà lù mù vàng đục có lẻ họ sợ ánh sáng chăng ?

    Rút tấm ni lông rách từ túi ba lô trải xuống nền xi măng, hai bàn tay gầy guộc vuốt mấy góc rách ra cho thẳng tiếng kêu sột soạt của tấm nhựa lâu ngày đã biến chất hình như nó cũng đang than thở muốn về hưu, ông lẩm bẩm:

“Chỉ có mày là người bạn trung thành của tao, đã bao nhiêu năm gắn bó từ tấm nguyên bây giờ bươm ra như tàu lá chuối, mày và tao qua nhiều chặng đường gian khổ tao già mày cũng già, tao gần chết mày cũng rách te tua, xơ cứng như thân hình khô đét của tao”

   Đặt cái ba lô làm gối ngã lưng nằm thử, ngửa mặt nhìn màu đen đặc quánh của bầu trời đêm trừ tịch.                                        

           Ông ngồi lên rút tấm vãi được cắt ra từ cánh tay chiếc áo cũ làm khăn mặt nhét bên túi ngoài ba lô đi tìm nhà vệ sinh kiếm nước rửa. 

    Đất nước xã hội chủ nghĩa  cái gì cũng khác với xả hội bình thường miền Nam, nhà vệ sinh của bệnh viện thấy mà khiếp, nền nhà đầy rác xả, nước đọng lều bều không thua chi bãi chợ cá về chiều, vòi nước chảy yếu ớt, màu vàng vàng hôi mùi phèn chua rỉ sét, Ông rùng mình lờm lợm, vò chiếc khăn thấm nước vắt ráo lau mặt, cảm giác lạnh lan nhanh làm cho Ông  tĩnh táo hẳn ra, mĩm cười một mình, tối nay giao thừa mai là ngày đầu của một năm, cũng là ngày khởi đầu của người về từ nhà tù, nhìn tới trước, con đường đời mình sẽ đi, giống như bây giờ đang nhìn lên bầu trời tối đen của đêm trừ tịch.

   Trở lại chỗ ngũ đứng nhìn quanh Ông nghĩ mình đã đi lộn chỗ, nhưng không ông nhớ không lầm, ông chọn nơi khuất bóng đèn chính là góc nầy, ông không nhầm chỗ nhưng đồ ngũ ông trải ra đây ai đó đã dọn nhầm.

   Ông thản nhiên ngồi xuống lẫm bẫm một mình:

-Còn cái mạng nầy sao không ai hốt nhầm đi cho luôn.

Đặt  lưng xuống nền xi măng lạnh, đôi dép  râu  mòn gót làm gối, muỗi bắt đầu tấn công, ông đứng  lên với tay bẻ nhánh cây vơ vơ đuổi bầy muỗi, dựa lưng vào góc tường mở to mắt nhìn khối đen dày đặc đang trùm kín không gian, suy nghĩ ngày mai của mình cũng tối đen đặc quánh như đêm nay, đâu đó tiếng pháo giao thừa vọng lại,  đầu óc trống rổng  cảm nhận  mong manh hôm nay là ngày tết.

 Ông lâm râm cầu nguyện.

        Con dâng Mẹ tất cả

       Họa phúc cõi phù du

       Vui buồn như gió thoảng

       Xin Mẹ phút bình an.

        Rồi đêm trừ tịch cũng qua. Ông đứng dậy vươn vai đếm từng bước đi ra cổng, bây giờ rất thoải mái không còn chút gì vướng bận tay chân, đúng câu nói người đời hay ví von “mình trần thân trụi”.

 Chân như cái máy bước về phía trước nhưng không biết đi đâu, hôm nay ngày mồng một xe tàu không có, người ta có quê để về còn ông nơi gọi là chùm khế ngọt ông đã lìa bỏ lúc còn tấm bé, cùng với gia đình ông  bác theo tàu há mồm vào Nam, bây giờ muốn về quê cũng không biết mô mà về, người thân duy nhất là gia đình ông bác, lần đầu tiên Diệu vô thăm nuôi cho biết gia đình bác đi đâu không  biết nhà bỏ trống lâu ngày Phường đã tịch thu nhà rồi.

  Ông nát óc suy nghĩ, đi đâu, làm gì, sống ra sao, trong túi không có một hào bạc, bộ áo quần mặc trong người nằm lăn nằm lóc hình như đang bốc mùi, ông ra đứng trước góc cửa bệnh viện hai mắt mở to nhìn đường nhưng chẳng thấy chi trước mặt.

 -Anh Lữ! Trung úy Lữ!

       Có ai đó gọi ông, Ông quay lại nhìn người vừa gọi, người thanh niên ngồi trên chiếc xe HonDa không quen mĩm cười gật đầu chào ông, ông cúi đầu chào lại, người đó dựng xe vào lề đường đến bên ông hỏi:

Xin lỗi anh có phải Trung úy Lữ trước ở Quân Y Biệt Động Quân không?                    

  Ông gật đầu trả lời:

Phải ! sao anh biết tôi.

    Người thanh niên trả lời

Chắc anh quên em, em là Chuẩn úy Thành thuộc Liên Đoàn 15 Biệt động Quân lúc đó em bị thương đồi 50 gảy xương quai xanh vai phải, anh đích thân cấp cứu đưa thẳng em về Quân y viện Duy Tân.

                 Ông nói:

    -Xin lỗi nhiều anh em quá tôi không nhớ hết.

 Thành nói tiếp:

Em cám ơn anh, sau thời gian điều trị được xuất ngũ là đi luôn không có dịp quay lại đơn vị. 

               Người đàn ông nói:

  Nhiệm vụ mà nói chi chuyện ơn nghĩa.

 Thành nhìn ông từ đầu tới chân hỏi:

   - Sáng mồng một anh đến đây thăm ai mà sớm vậy, sao không vô, bộ anh đang chờ bạn hả?  Ai nằm trong đó, anh cần chi em nói vợ em giúp, cô ấy đang làm việc ở đây.

  Lữ nói:

Mình đứng đây chứ không chờ ai hết.

  Thành hỏi:

Đứng đây làm chi?

  Lữ đáp:

Đêm hôm qua mình ngũ trong hành lang bệnh viện, sáng nay thức dậy không biết đi đâu ra đứng đây coi thiên hạ.

 Thành nói:

Anh giỡn chơi hay nói thật.

Lữ cười nói:

Cứ nhìn con người mình thì biết nói chơi hay thật, mình từ trại tù về ngày hôm qua, ba chân bốn cẳng chạy về nhà ăn tết với vợ, không may vợ mình lấy chồng khác còn bán nhà của mình, gia đình ông bác đi đâu mất, nhà bị tịch thu, mình không biết đi đâu đêm hôm qua vào ngũ trong hành lang bệnh viện, tấm ni lông trải để nằm, cái ba lô rách để làm gối trong có cái mùng muỗi vá chằng vá chịt với bộ đồ tù, mình đi rửa mặt ra chúng nó đã biến mất, gia tài của mình chừng đó bây giờ  không còn chi hết .

Thành nói:

Từ trại tù về hèn chi, em ngờ ngợ không biết phải anh không, ngày trước phong độ điển trai bây giờ anh ra thân thể như thế này, em nghi nghi không biết có phải anh không gọi đại té ra đúng là anh.

            Lữ hỏi:

Thành tới đây làm chi sớm thế.

            Thành đáp:

Em chở vợ em tới trực, chiều tới đón.

  Thành nói tiếp:

Nếu anh không biết đi đâu em mời anh về nhà em ăn tết, không có chỗ ở thì ở lại với gia đình em vài hôm qua tết rồi tính, nhà em rộng lắm chỉ có hai vợ chồng với đứa con gái năm tuổi.

  Suy nghĩ một lúc Lữ trả lời:

Thật lòng mình cũng không biết tính sao trong hoàn cảnh này nếu được Thành giúp mình xin cám ơn, nhưng ngại quá, sợ làm phiền gia đình Thành, khi không rước một lão tù về nhà ngày đầu năm.

Thành cười to nói.

-Anh yên tâm em làm theo những điều Chúa dạy:

về 8 mối phúc thật dạy rằng: Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy. Còn thương người có 14 mối dạy rằng:

“Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc. khách đỗ nhà” v.v…

     Lữ theo Thành về nhà, lột bỏ những gì của trại tù còn lại trên người, Thành mang cho Lữ một số áo quần của Thành để thay đổi, đưa Lữ vào căn phòng đầu hồi nam có cửa thông ra vườn.

 Thành nói:

Phòng này bỏ trống, nhà ít người ban đêm vợ đi trực hai cha con ôm nhau ngủ sớm, căn nhà vắng lặng buồn lắm bây giờ có anh ở lại tụi em vui lắm, thêm một người nhà thêm ấm cúng.

       Lữ cảm động nói:

Thành giúp cho anh được ngày nào hay ngày ấy chứ bây giờ rời khỏi nhà Thành anh không biết đi đâu, ngũ bờ ngũ bụi, không chừng chết đói ở góc xó nào đó. 

         Thành nói:

 Đây cũng là cơ duyên của anh em mình, thôi anh tắm rửa em chuẩn bị đồ ăn, anh em mình ăn sáng rồi anh đi ngũ chớ đêm qua chắc không ngũ ngáy chi được, đau thương phiền muộn gì cũng gác qua một bên, trước mắt ổn định sức khỏe cái đã, em thấy thân hình và nước da của anh em biết anh đang bị sốt rét nặng, trị xong bệnh sốt rét lấy lại phong độ, đẹp trai như anh thì ôi thôi, em còn nhớ ở đâu đó có câu : 

       “Em về điểm phấn tô son lại, ngạo với nhân gian một nụ cười”.

Hoàn cảnh đẩy đưa như vậy thì cũng đành cắn răng chấp nhận chứ biết làm sao hơn.

Vợ Thành đi làm về chuẩn bị xong bữa cơm chiều Thành vào đánh thức Lữ dậy, Lữ áy náy vô cùng, bất cứ việc gì trong gia đình phải thuận vợ thuận chồng chứ chồng cứ đem luật gia trưởng ra áp đặt bắt vợ phải phục tùng ý của mình, đặt mọi việc trước sự đả rồi vợ chồng sinh ra lũng củng bất hòa, không biết mình có đem tới cho vợ chồng Thành sự bất an trong gia đình không.

Lữ mau mắn theo Thành ra bàn ăn, vợ Thành đứng lên chào Lữ quay qua nhắc con gái:

Khánh con đứng dậy chào bác đi con.

Con bé đứng lên khoanh tay chào bác. Lữ trả lời:

Khánh ngoan con ngồi xuống, Chào thím Thành. 

Dạ em chào anh, mời anh ngồi.

Họ ngồi vào bàn ăn, vợ của Thành lên tiếng.

Anh Thành đã nói cho em biết  hoàn cảnh của anh, lâu nay nghe người ta nói, nhiều người ở tù về mất vợ, mất nhà, ít ai tin đó là chuyện thật, bây giờ em đã  tin, một sự thật ngoài suy nghĩ của em, em xin chia xẻ hoàn cảnh không may của anh, vợ chồng em đã bàn với nhau anh yên tâm ở lại với gia đình chúng em, nhà rộng phòng bỏ trống nhiều năm, tới bữa ăn thêm một cái chén, khoảng một hai tuần là sức khỏe của anh trở lại bình thường lúc đó ai làm nấy ăn, là ngành Y anh cũng biết bệnh sốt rét không khó điều trị, anh coi tụi em là em của anh, đây là gia đình mới của anh, nên đừng ngại ngùng chi hết .

     Lữ trả lời:

Cám ơn lòng tốt của chú thím, không nhờ chú thím cưu mang trong hoàn cảnh bi đát nầy không biết làm sao lo cho thân mình.

Thành nói:

Như vậy anh đã hiểu vợ chồng em rồi, anh an tâm đừng suy nghĩ chi hết, thôi mình ăn cơm.

Sau bữa cơm vợ Thành nhắc:

Mồng bốn cơ quan nhà nước làm việc, anh Thành đưa anh ra phường trình giấy tờ, theo em nghĩ anh cũng nên viết tường trình về hoàn cảnh của anh để cắt dứt  quan hệ trên pháp lý của anh với chị ấy, mình không lường trước được việc gì sẽ xảy ra trong tương lai, việc kia chị làm được thì bất cứ việc gì chị cũng có thể làm, để tránh rắc rối cho anh về sau anh nên suy nghĩ ý của em, nếu cần nhân chứng có vợ chồng em đây.

Cám ơn thím nhắc không thì tôi đã quên tờ giấy hôn thú, tôi sẽ viết tờ trình và nhờ chú thím giúp làm chứng.

  Sau hai tuần điều trị bệnh sốt rét, chuyền thêm hai bình đạm bây giờ Lữ thấy trong người sức khỏe rất tốt, trong bữa cơm tối anh trình bày với vợ chồng Thành ngày mai sẽ đi kiếm việc làm, vợ của Thành nói:

 Ở trong nhà anh cũng thấy rồi đó, ngoài việc bệnh viện về nhà em còn chích thuốc chữa bệnh cho bà con, họ biết mình cán bộ y tế của miền Nam là tìm tới nhờ giúp, mình giúp họ thì lấy tiền, em thì giờ không có nhiều, làm tư ở ngoài dễ kiếm tiền nhưng không thể bỏ bệnh viện được, lương tiền không bao nhiêu mà phải đeo bám giữ chân cán bộ nhà nước, có vậy địa phương mới không kiếm chuyện vì mình là dân miền Nam. Anh khỏi đi tìm việc chi hết, em cho anh mượn vốn anh ra chợ trời làm quen với các chủ sạp dặn họ để dành thuốc tây cho anh, quan trọng là thuốc trụ sinh, còn hạn hay hết hạn anh hốt hết về đây em có thị trường tiêu thụ, em sẽ giới thiệu cho anh một vài người quen, bà con họ đồn nhau thì anh chạy không kịp, mình làm chui, chịu khó đi quanh đã, lần lần rồi ngồi nhà. 

Anh Lữ thắc mắc:

Chợ trời mà cũng có bán thuốc tây sao?

Vợ Thành trả lời:

 Anh ở tù nên anh không biết chủ trương đánh tư sản mại bản, cải cách công thương nghiệp, các nhà thuốc tây gặp nạn này họ bị gán tội đầu cơ tích trữ, bị đóng cửa thanh lý tài sản, nguồn thuốc thanh lý không ai dám dùng, uống bậy bạ là chết nên thuốc từ từ  ra chợ trời, đó là một nguồn, nguồn thứ hai từ các bệnh viện Quân y của mình và các kho thuốc Quân đội, bệnh viện bây giờ dùng thuốc các công ty dược tự pha chế giống như thuốc Xuyên Tâm liên chẳng hạn, thuốc tây tịch thu họ bán rẻ như khoai sắn, anh cứ  trả  một phần ba giá họ đưa ra, ví dụ mười đồng anh trả ba đồng rồi lên tí xíu là họ bán ngay.

    Theo hướng dẫn của vợ Thành, Lữ bắt đầu nhập cuộc, trước tiên anh khẳng định, thầy thuốc bất cứ hoàn cảnh nào thì y đức vẫn đi đầu đó là lương tâm của Y bác sĩ, vì vậy nên được bà con tín nhiệm, gần xa gì cũng tìm tới, vừa giúp bà con mà cũng tự lo cho đời sống.

  Lữ mang ơn sâu nặng vợ chồng Thành, nhờ gia đình nầy anh mới có cuộc sống hôm nay, Lữ không tiếc bất cứ gì anh có, là một  thành viên của gia đình, chứng tỏ mình là người anh lớn Lữ cùng ghé vai chăm lo gia đình giúp cho vợ chồng Thành, cuộc sống gia đình êm ã rộn tiếng cười  ngập tràn hạnh phúc, nhiều lần vợ chồng Thành nhắc anh  lập gia đình, vợ Thành giới thiệu một vài cô bạn thân quen cùng làm việc trong bệnh viện cho anh nhưng anh nói:

Nghe tới chữ vợ là anh rùng mình, khi nào anh nghe chử vợ mà đầu óc bình thường lúc đó mới nói chuyện, hơn nửa luật đạo công giáo cô chú cũng biết rồi, kết hôn với người khác trong khi người phối ngẫu còn sống thì không được, phải ra tòa án hôn nhân của giáo hội xét xử đã.

Vợ Thành nói:

Đọi đến lúc đó anh già khú đế rồi ai mà ưa anh nửa.

Lữ cười nói:

Có sao đâu không ai ưa thì ở với chú thím như bây giờ.

 Rồi chương trình HO râm rang khắp đây đó, vợ chồng Thành thúc hối anh cướp thời cơ lập thủ tục liền, vì chính sách của nhà nước không lường trước được hôm nay vậy ngày mai chưa biết ra sao, cơ hội tới là nhanh tay chụp giật.

  Nhờ vậy mà anh được gọi phỏng vấn HO. 2 ra đi trong diện độc thân. Ngày chia tay buồn nhiều hơn vui, anh không dám hứa hẹn điều gì vì chưa biết cuộc sống mới trên nước Mỹ ra sao, nhưng lòng anh ước ao một mái ấm gia đình, cùng chung sống với vợ chồng Thành như mấy lâu nay đã sống.

Anh đi diện đầu trọc được bão trợ về tiểu bang Ca Li, trong suốt thời gian hưởng trợ cấp của chính phủ anh dốc tâm vào việc học, rồi kiếm việc làm, cuộc sống hiện tại của anh không mấy khó khăn vì anh đã trưởng thành trong lò đào tạo giãi phóng, anh thầm cám ơn người làm tổn thương anh nhờ bài học đó mà anh đã tôi luyện ý chí, cám ơn người vợ đã lừa dối anh cho anh bài học kinh nghiệm làm người, cám ơn vợ chồng Thành đã cưu mang anh, anh thường xuyên thư về thăm hỏi cợ chồng Thành.

Với trường hợp của gia đình Thành anh đã đến trình bày và xin ý kiến của Luật Sư di trú, Luật sư gợi ý muốn đoàn tụ chỉ có một cách cưới con gái của Thành rồi sau đó con bão lảnh cho cha mẹ.

 Anh thư về cho vợ chồng Thành trình bày ý nghĩ này, đợi khi Khánh tròn hai mươi anh sẽ xin giấy về kết hôn, đương nhiên là kết hôn đã, đó là con đường duy nhất cho gia đình mình đoàn tụ.

 Thời gian không ngừng, vẫn tí tách trôi hết ngày qua tháng, hết tháng qua năm, anh đã thi nhập Quốc tịch Mỹ cũng đúng năm Khánh con gái của vợ chồng Thành tròn hai mươi tuổi, như dự tính anh xin công hàm độc thân mang trở về làm giấy kết hôn, gần hai năm sau Khánh được qua Mỹ.

  Theo trình tự di trú sau ba năm Khánh nhập quốc tịch làm giấy bảo lảnh cho cha mẹ theo diện đoàn tụ.  

Vợ chồng Thành phỏng vấn xong Lữ mua vé máy bay về đón họ qua, anh đề nghị vợ chồng Thành đi sớm mấy ngày, trên đường về Sài gòn ghé thăm chơi các thành phố, tối đâu nghỉ đó coi như một chuyến du lịch đường dài.

 Xe họ ghé lại thành phố Nha Trang đứng lại trước nhà hàng tên Thùy Dương trên đường Duy Tân, đường Duy Tân chạy dọc theo bải biển hàng dừa hàng phi lao xanh mướt, xa xa trước mặt là dãy núi Hòn Tre, như một bình phong chắn gió cho thành phố biển này, gió lộng mát lạnh tiếng thông reo hòa tiếng sóng rì rào từng nhịp vổ vào bờ cát như đang hát. 

 Cửa xe trước mở vợ Thành chuẩn bị bước xuống, năm bảy cô gái trước ngực mang hộp gổ khá to đựng đủ thứ, gương lược, dầu gió, kẹo cao su, kính đeo mắt, tóm lại một cửa hàng tạp hóa nhỏ di động họ nhao nhao mời mua, mấy người gõ hai bên cửa kính sau hàng ghế Thành và Lữ ngồi, qua lớp kính xe, họ chỉ chỏ vào hộp gổ có ý mời mua.

Lữ  giật mình nhìn kỉ người  phụ nữ gõ cửa phía bên Thành, cái mũ  xanh lam  rộng vành, dải khăn voan hồng cột trên đầu xuống cổ làm quai, hai vành mũ hai bên che khuất gần hết khuôn mặt, còn lại bộ lông mày, hai con mắt, sóng mũi, miệng và cằm, chỉ chừng ấy anh đã nhận ra người đó là ai, anh ghé qua nói  với Thành, hai em và chú tài xế vô trước anh ngồi lại một lát sẽ vô sau, hai em gọi thức ăn nếu anh vô chưa kịp thì cứ dùng trước đừng đợi.

  Lữ ngồi lại trong xe một lúc đợi mấy chị bán hàng rong tản mác, anh lấy khăn lông trùm đầu đi nhanh vào nhà hàng.

 Suốt bữa ăn Lữ im lặng không nói gì, thái độ bất thường khác hẳn mọi khi vợ Thành áy náy hỏi:

Anh Lữ! có chuyện chi mà trông anh khác khác, buồn buồn.

Lữ im lặng một lúc rồi nói:

Không có chi cả, vừa rồi trong mấy chị mời mua hàng anh thấy Diệu. 

Vợ Thành nói:

Anh nhìn kỹ chưa hay nhìn lầm ai đó .

Lữ trả lời:

Đúng là cô ấy, không lầm ai khác.

Vợ Thành hỏi tiếp:

Bây giờ sao anh?

Lữ vừa cười vừa nói:

Để anh kêu cảnh sát bắt cô ta, tội lừa tình lừa tài sản, chỉ có vậy thôi chứ biết làm sao, nói cho vui chứ thật tình thấy cô ấy anh cũng xao xuyến trong lòng, giận cũng rồi, ghét cũng rồi, tất cả đã qua, điều thắc mắc chồng cô ấy đâu, Diệu có học tại sao không kiếm việc chi làm mà đi bán hàng rong tội nghiệp như vậy.

Vợ Thành góp ý :

 Gặp nhau một lần cũng là bạn, người ta nói “Nhất dạ phu thê bách dạ ân” huống hồ mấy năm chung sống, tình nghĩa vợ chồng, hết tình thì còn nghĩa, chị ấy đã làm việc trái đạo lý tội ấy đương nhiên là phần của chị ấy, còn anh, anh có mắc nợ chi mà anh lo, theo em anh tỉnh bơ gặp chị ấy, mọi chuyện cứ xuôi theo tự nhiên.

 Lữ nói:

Anh ngồi lại trên xe suy nghĩ, nên mở cửa bước ra gặp, hay ngồi nán lại tránh đừng gặp. Rồi quyết định tránh không gặp đó là giữ lại chút tình với cô ấy, gặp anh cô ấy có đủ can đảm nhìn anh không? Vui cười hay đau đớn vì tội lỗi mình đã làm, anh gởi thím ít tiền tìm cô bán hàng đội mủ vải xanh lam có khăn voan đỏ làm quai, cột từ trên xuống cổ, gởi tý quà cho cô ấy đừng nói tiền của anh.

Vợ Thành đồng ý đi tìm gặp Diệu, họ nói chuyện cả tiếng đồng hồ trở lại vợ Thành cho biết:

Như suy nghỉ của anh, nếu anh tới mặc cảm tội lỗi chị ấy không dám đối diện với anh, chị ấy nói nếu cuộc đời suôn sẻ như ý mình muốn thì đâu còn là cuộc đời, sự phản bội lừa dối của chị ấy, chị ấy đã trả giá quá đắt, chị ấy gởi lời xin lỗi anh mong anh tha thứ cho chị ấy, chị ấy  né tránh nói đến cuộc sống hiện tại và gia đình của chị ấy.

 Họ tiếp tục hành trình đến Hoa Kỳ theo chuyến bay mua vé trước, mái ấm gia đình rộn rả tiếng cười vui như ngày nào. Vợ Thành liên lạc thường xuyên giúp đỡ cho Diệu.

 Anh Lữ biết điều đó thỉnh thoảng chia xẻ tý quà nhờ vợ Thành chuyển.

Lữ nói với vợ Thành:

-Nhờ thím chuyển lời, cô ấy cần gì anh sẵn sằng giúp.

 Phương Lâm.


No comments:

Post a Comment