Theo tác giả “The Sympathizer”, văn chương của người Mỹ gốc Việt chỉ thường tập trung vào những kinh nghiệm sống của người tị nạn khi họ đến Mỹ. Điều quan trọng hơn cả, anh muốn phê phán vai trò của người Mỹ ở Việt Nam thay vì lặp lại thái độ thường thấy của những người Mỹ gốc Việt, đó là hoặc biết ơn vì được người Mỹ giải cứu, hoặc hòa giải, không muốn đối đầu trực tiếp.
Trong những tác phẩm đó, “không có nhiều sự thịnh nộ… và nếu có, thì cơn giận dữ hay thịnh nộ lại nhắm vào những kẻ không biết đất nước nguồn cội ở châu Á, gia đình châu Á, hay những kẻ gia trưởng châu Á”. Đó là lý do tại sao trong “The Sympathizer”, qua những suy nghĩ của viên sĩ quan nằm vùng, có những phê phán về văn hóa Mỹ và nước Mỹ.
Trong một bài viết trên “New York Times”, Nguyễn Thanh Việt xác định khi viết “The Sympathizer” rằng anh có tham vọng “lấp đầy một khoảng trống trong văn chương”, anh cố gắng “viết cho những người từ trước đến giờ không có tiếng nói hoặc ít có cơ hội lên tiếng” để giúp độc giả có một cái nhìn khác về Việt Nam. Tham vọng tưởng chừng như xa vời đó bỗng trở thành thực tế khi anh đã chen chân vào thế giới văn chương Hoa Kỳ.
Thật ra đã có nhiều nhà văn người Mỹ gốc Việt viết trực tiếp bằng tiếng Anh hay qua những tác phẩm được chuyển ngữ sang tiếng Anh. Thế hệ thứ nhất của người Việt tại Mỹ đã có những cây bút như Lệ Lý Hayslip hay Mai Elliott, họ là những người đã trực tiếp trải nghiệm cuộc chiến.
Phùng Thị Lệ Lý, sinh năm 1949 tại Đà Nẵng, nổi tiếng với hai tác phẩm “When Heaven and Earth Changed Places” (Khi Đất Trời đảo lộn) và “Child of War, Woman of Peace” (Đứa trẻ thời chiến, người phụ nữ thời bình). Bà vừa là nhà văn vừa là người sáng lập các tổ chức phi chính phủ – “East Meets West Foundation” (Đông Tây Hội Ngộ) và “Global Village Foundation” (Làng Toàn Cầu).
Bà theo mẹ bỏ trốn vào Sài Gòn và giúp việc cho một gia đình giàu có nhưng rồi lại phải trở về Đà Nẵng khi bị phát hiện mang thai với ông chủ. Bà cùng mẹ quay trở lại miền Trung, nuôi con nhỏ bằng cách bán chợ trời, giao thuốc phiện và kể cả việc làm gái mại dâm. Cuộc đời trôi nổi cùng cực của Lý Lệ chấm dứt vào năm 1969, khi bà lập gia đình với một kỹ sư người Mỹ. Năm 1970, bà theo chồng về Mỹ định cư. Năm 1973, khi chồng mất, bà lập gia đình với người thứ hai có hai người con. Người chồng thứ nhì của bà lại chết trong một tai nạn giao thông năm 1982. Chính cuộc đời chìm mổi của Lệ Lý Hayslip trong suốt chiều dài cuộc chiến Việt Nam đã giúp tác giả viết một cách thoải mái tại Hoa Kỳ. Bà đã trở thành một nhà văn có sức thu hút người đọc vốn bị ám ảnh vì “hội chứng Việt Nam” tại Mỹ
Nhà văn Le Ly Hayslip trong chương trình ‘Honor: In Their Words – Stories Commemorating The 50th Anniversary Of The End Of The Vietnam War’ tại Hollywood Legion Theater, Los Angeles ngày 18 Tháng Ba 2023 (ảnh: Unique Nicole/Getty Images)
Theo New York Times, tác phẩm “When Heaven and Earth Changed Places” được xếp vào loại best-seller, được dịch ra 17 ngôn ngữ và đã được đạo diễn Oliver Stone dựng thành phim “Trời và Đất” năm 1993. Đó cũng là một thành tích sáng chói của một cây bút người Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ thứ nhất. Giữa Lệ Lý Hayslip và Mai Elliott (Dương Vân Mai) có điểm chung là nhà văn nữ, sống cùng thời chiến tranh nhưng họ lại có khác biệt là nguồn gốc gia đình trong xã hội Việt Nam. Dương Vân Mai xuất thân trong một gia đình khá nổi tiếng. Bà là hậu duệ đời thứ tư của hai anh em danh sĩ Dương Khuê và Dương Lâm, người làng Vân Đình, Hà Tây.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài thơ “Khóc Dương Khuê” mở đầu bằng câu “Bác Dương thôi đã thôi rồi / Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…” để nói lên cái tình của ông đối với Dương Khuê, người đỗ Cử Nhân năm 1864 dưới thời Tùng Thiện Vương và hai năm sau đỗ Tiến sĩ thời Tự Đức. Thi sĩ Dương Khuê từng nổi tiếng với bài ca trù “Gặp lại cô đầu cũ”:
“Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu…”Câu chuyện về dòng họ Dương được Mai Elliott kể lại trong cuốn hồi ký “The Sacred Willow, Four Generations in the Life of a Vietnamese Family” (Cây liễu thiêng, bốn thế hệ trong cuộc đời của một gia đình Việt Nam). Cuốn sách được xuất bản năm 1999 và sau đó được đề cử giải Pulitzer năm 2000. Mai Elliott tâm sự:
“Với hầu hết người Mỹ, Việt Nam chỉ là một cuộc chiến tranh. Nghĩ đến Việt Nam, họ chỉ nghĩ đến chiến tranh. Họ thực ra không hiểu rõ lịch sử Việt Nam ra sao, gia đình, phong tục tập quán, những điều mà người Việt trải qua các thời đại như thế nào. Mục tiêu viết sách của tôi rất giản dị, sách được viết cho chính những người Mỹ bình thường, ít hiểu biết về Việt Nam”.
Gia đình Dương Vân Mai cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh ý thức hệ: Vợ chồng người chị ruột theo Việt Minh nên ở lại Hà Nội, không di cư vào Nam cùng gia đình năm 1954. Tại Sài Gòn, năm 1960, Mai là một trong 15 học sinh Việt Nam giành được học bổng Mỹ để theo học ngành ngoại giao tại Đại học Georgetown. Năm 1961, Mai gặp người chồng tương lai, David Elliott, tại một bữa tiệc Giáng sinh dành cho những người Việt xa xứ ở Washington DC. William Yandell Elliott, cha của David, là một học giả nổi tiếng tại Đại học Harvard và cũng chính là thầy của những sinh viên sau này trở thành Tổng thống J.F. Kennedy và Ngoại trưởng Henry Kissinger.
- Bà Mai Elliott (trái) và Tướng Merrill McPeak trong một chương trình về đề tài chiến tranh Việt Nam (ảnh: Frederick M. Brown/Getty Images)
Năm 1964, sau khi tốt nghiệp, Mai Elliott cùng chồng quay lại Việt Nam và làm việc cho RAND Corporation, một tổ chức nghiên cứu hợp tác với Bộ Quốc phòng Mỹ. Công việc của vợ chồng Mai Elliott tại RAND là phỏng vấn và nghiên cứu về các tù binh Cộng sản với mục tiêu giúp người Mỹ tìm hiểu về những người ở phía bên kia. Năm 1968, Mai rời Việt Nam và định cư hẳn tại Mỹ.
Năm 1973, Mai về thăm gia đình và không ngờ đây là chuyến trở về lần chót trước khi Sài Gòn đổi chủ. Năm 1975, vào những giờ phút cuối cùng trước khi quân đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, gia đình Mai Elliott được đưa khỏi miền Nam và định cư tại Mỹ. Mai Elliott đã tạo cho mình một chỗ đứng trong văn đàn tại hải ngoại. Đó là một vị trí đặc biệt của những cây bút thiểu số gốc Á-Phi giữa một rừng bút tại Hoa Kỳ mà phần đông là những người da trắng. Nhờ đó, độc giả người Mỹ có những hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống, con người và đất nước Việt Nam.
Hoàn cảnh gia đình Nguyễn Thanh Việt cũng giống như trường hợp Mai Elliott. Họ đều có gốc là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Gia đình mẹ của Việt đều vào Nam trong khi bên phía gia đình bố anh lại có những người quyết định ở lại miền Bắc. Tiếp đến là cuộc di cư lần thứ hai vào năm 1975, gia đình Việt thuộc nhóm những người “vượt biên” đến Hoa Kỳ sớm nhất, khi đó anh chỉ mới bốn tuổi. Mãi đến đầu thập niên 1990 họ mới về lại Việt Nam. Bố của Việt gặp lại bà con, họ hàng Nam-Bắc sau 40 năm xa cách và mẹ của anh cũng được hội ngộ với người thân tại Sài Gòn sau 20 năm viễn xứ.
Chuyện gia đình Việt được anh kể lại trong một cuộc phỏng vấn với nhiều chi tiết hấp dẫn như trong tiểu thuyết. Tháng Ba 1975 bố anh (ông Nguyễn Ngọc Thanh – Joseph Thanh Nguyen) đang ở Sài Gòn lo công việc. Họ có tiệm vàng khá nổi tiếng từ năm 1963, mang tên Kim Thịnh, tại Ban Mê Thuột (BMT). Cũng vào Tháng Ba 1975, thị trấn BMT tràn ngập bởi lính Bắc Việt và nơi đây cũng là chiến trường đầu tiên dẫn đến việc Sài Gòn bị thất thủ ngày 30 Tháng Tư 1975.
Mẹ anh, bà Linda Kim, cùng hai cậu con trai (Nguyễn Thanh Tùng và Nguyễn Thanh Việt cách nhau bảy tuổi) và cô con gái nuôi 16 tuổi (Nguyễn Thị Thanh Hương) mất liên lạc với ông Thanh kể từ đó. Bà quyết định rời BMT với hai người con trai và để lại cô con gái nuôi trông coi cửa hàng. Họ chạy loạn về Nha Trang bằng đường bộ. Việt còn quá nhỏ để nhớ lại những gì đã xảy ra trong suốt quãng đường dài từ BMT về Nha Trang nhưng theo lời kể của người anh trai, đó là một cuộc hành trình gian nan, khủng khiếp của quân và dân vùng cao nguyên chạy về vùng biển.
Từ Nha Trang, ba mẹ con đi tầu biển về Sài Gòn, tại đây họ gặp lại ông Thanh. Rồi từ Sài Gòn, họ tiếp tục cuộc hành trình tìm tự do bằng đường biển nhưng lại một lần nữa họ lạc nhau trong tình trạng hỗn mang. Ba mẹ con không biết người cha đang ở đâu. Có lên cùng tầu hay không? Giống hệt như trò chơi “bịt mắt bắt dê” thời con nít nhưng cuối cùng cả gia đình lại chung một chuyến tầu!
Ngày đến Hoa Kỳ, gia đình Việt được tập trung tại trại tỵ nạn Fort Indiantown Gap, thuộc tiểu bang Pennsylvania. Để rời khỏi trại tỵ nạn phải có sự bảo lãnh của người Mỹ và khi đó rất khó tìm được người bảo lãnh cho cả một gia đình gồm bốn người. Cuối cùng thì gia đình Việt phải chia tay nhau đến ở với ba gia đình bảo trợ: Việt, Tùng và ông bà Thanh. Số mệnh đưa đẩy nên chuyện gia đình hợp-tan lại một lần nữa lại xảy ra. Dù thời gian xa cách chỉ kéo dài không đến một năm nhưng đó lại là một “chấn thương sâu đậm” trong tinh thần một đứa trẻ mới bốn tuổi khi phải sống xa sự chăm sóc của bố mẹ. Việt mô tả chấn thương đó tựa như một “dấu vết hằn sâu trên đôi vai suốt cuộc đời”!
Đầu tiên cậu bé sống với một cặp vợ chồng người Mỹ còn trẻ. Nhà của họ thuộc loại “nhà lưu động” (mobile home) và vì không có con cái nên họ cũng chẳng có kinh nghiệm gì trong việc sống với một đứa trẻ lên bốn. Việt lại được chuyển tiếp đến một gia đình người Mỹ với sự chăm sóc chu đáo hơn. Để giúp cậu bé cảm thấy thoải mái, họ dạy cậu cách sử dụng đũa khi ăn và cả nhà đều dùng đũa! Việt nhớ lại, đó là lần đầu trong đời cậu mường tượng được sự khác biệt về văn hóa giữa Mỹ và Việt.
Tại California, vào thời điểm đó đang dần hình thành một cộng đồng người Việt, họ tỏa ra từ trại tỵ nạn Pendleton ở gần San Diego. Camp Pendleton cũng được Nguyễn Thanh Việt nhắc đến trong “The Sympathizer” khi gia đình Ông Tướng và người sĩ quan tùy viên đến Mỹ sau khi di tản khỏi Việt Nam. Người Việt tại các nơi khác cũng rủ nhau về Cali vì khí hậu ở đây tương đối giống với Việt Nam và thành phố San Jose là nơi lý tưởng cho mọi người, trong đó có gia đình của Việt. Bước đầu, bố mẹ Việt giúp việc trong cửa hàng thực phẩm của một người quen từ thời còn ở BMT.
Dần dà ông bà Thanh mở một cửa hàng riêng chuyên cung cấp các loại thực phẩm cho người Việt, chủ yếu là gạo, nước mắm và trái cây nhiệt đới. Theo nhận xét của tác giả, người Việt rời đất nước lúc nào cũng muốn duy trì truyền thống văn hóa dân tộc nhưng lại cũng vô tình mang theo cả sự tàn bạo của chiến tranh. Với trí nhớ của một cậu bé chưa đến 10 tuổi, Việt vẫn bị ám ảnh bởi cái ngày mà cửa hàng thực phẩm của gia đình bị chính người Việt tống tiền.
Với bất cứ giá nào, ông bà Thanh vẫn làm việc cật lực để đầu tư vào tương lai của hai người con trai. Ngày nay, họ đều mãn nguyện khi nhìn lại công sức của mình. Người con trai lớn, Nguyễn Thanh Tùng, hiện là Giáo sư Đại học Stanford, ông từng là cố vấn Y tế – Giáo dục – Kinh tế cho (cựu) Tổng thống Obama. Người em, Nguyễn Thanh Việt, Giáo sư ngành Sắc Tộc Học và Nghiên Cứu Hoa Kỳ và Anh Quốc, Đại học Southern California (USC). Quan trọng hơn cả, Việt là tác giả cuốn tiểu thuyết “The Sympathizer”. Anh cũng là tác giả nhiều bài nghiên cứu khoa học, trong đó có tác phẩm về Việt Nam, “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War” (tạm dịch “Những chuyện chưa bao giờ tan biến: Việt Nam và Hồi Ức Chiến Tranh”) viết năm 2016.
Ba trang ở phần cuối “The Sympathizer” Nguyễn Thanh Việt dành cho những lời cảm tạ của tác giả. Qua đó người đọc hiểu được những diễn biến của câu chuyện điệp viên được dựa vào những tài liệu được người Mỹ công bố như cuốn “Decent Interval” của Frank Snepp và các bài viết về những ngày cuối của Sài Gòn của các phóng viên ngoại quốc. Cần nhấn mạnh, cũng bởi tham khảo quá nhiều tài liệu một chiều nên Việt không khỏi không “xây dựng” những hình ảnh vô hình trung phù hợp với đường lối tuyên truyền của cộng sản, đặc biệt là cảnh cảnh sát quốc gia VNCH hiếp nữ cán binh Việt Cộng theo một cách vô cùng bệnh hoạn. Có thể nói đây là chi tiết tệ nhất trong “The Sympathizer”.
Kinh nghiệm của những cựu sĩ quan VNCH trong trại cải tạo sau 1975 cũng được tham khảo và tác giả cám ơn những người viết như Trương Như Tản, Huỳnh Sanh Thông, Trần Trí Vũ, Jade Ngoc Quang Huynh. Không biết tác giả vô tình hay cố ý đã “quên” một nhân vật rất quan trọng của miền Bắc, người để lại một câu “khuôn vàng thước ngọc” cho chế độ: “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.
Ở Chương 22 có đoạn đối thoại giữa người viết bản tự khai dài 307 trang với viên chính ủy xoay quanh câu nói của Hồ Chí Minh:
“Cái gì quý hơn độc lập và tự do?
Hạnh phúc?
Cái gì quý hơn độc lập và tự do?
Tình yêu?
Cái gì quý hơn độc lập và tự do?
Tôi không biết!
Cái gì quý hơn độc lập và tự do?
Ước gì tôi được chết!”Theo Nguyễn Thanh Việt, ảnh hưởng quan trọng hơn cả là bộ phim “Apocalypse Now” về chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Francis Ford Coppola. Việt cho biết anh đã bị bộ phim năm 1979 ám ảnh từ lúc còn trẻ, đó cũng là lý do thôi thúc anh viết “The Sympathizer”.
“Đây là bộ phim ảnh hưởng mạnh đến một chàng trai trẻ như tôi, nó khiến tôi như bị chia hai. Trong vị trí là một khán giả người Mỹ, tôi nhìn thấy mình qua hình ảnh người lính trong phim. Cho tới khi họ giết người dân Việt Nam, những con người nhìn giống tôi, đó là khoảnh khắc tràn ngập nỗi bối rối, bức bối và đau đớn!”
Theo anh, bộ phim đã cho thấy điện ảnh Hollywood chỉ là một công cụ tuyên truyền cho quân đội Hoa Kỳ mà không đếm xỉa gì đến thân phận của của người gốc Á châu nói chung và người Việt nói riêng. Hằng triệu người bản xứ đã bị giết (trực tiếp hay gián tiếp) trong cuộc chiến vừa qua, họ chỉ là những bóng ma trong phim để tôn vinh những người lính Mỹ. Thế cho nên, Nguyễn Thanh Việt đã để nhân vật chính trong “The Sympathizer” thay anh trả đũa lại Hollywood trong vai trò cố vấn cho đạo diễn người Mỹ làm phim chiến tranh về Việt Nam. Phải chăng, đó là nguyên nhân sâu xa khiến người đọc – dù da trắng hay da màu – cũng thấy cái bóng của mình trong tác phẩm. Và đó cũng là lời giải thích tại sao “The Sympathizer” có thể chen chân vào danh sách Pulitzer của văn chương Hoa Kỳ.
Tuesday, May 9, 2023
Tháng Tư, đọc lại “The Sympathizer” (3) Nguyễn Ngọc Chính
Nhà văn Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Thanh Việt) – (ảnh: Cesar Gomez/SOPA Images/LightRocket via Getty Images)
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment