Tác Giả: NgyThanh
01-05-2019, 01:46 PM
Ngay khi được tin công dân Mỹ đầu tiên bị 4 tên hải tặc Somali bắt làm con tin, Ngủ Giác Đài gởi ngay Diệt Ngư Lôi Hạm Bainbridge với thủy thủ đoàn gồm 42 sĩ quan và 516 binh sĩ võ trang 2 giàn phóng hoả tiễn Mk-10, 2 giàn phóng hoả tiễn Harpoon, 2 súng phóng hoả tiễn Tomahawn, 2 giàn ba nòng phóng thủy lôi Mk-46, 2 giàn đại liên 20 ly và 1 giàn phóng hoả tiễn Mk-16 ASROC. Ngoài ra, Đệ Ngủ Hạm Đội cho tăng cường Drone thám thính thường xuyên có mặt trên không phận của chiếc thuyền cứu sinh. Một trăm giờ đồng hồ trôi qua đủ để Ngủ Giác Đài nghiệm ra được sự bất lực của binh hùng tướng mạnh. Qua ngày thứ tư, Bộ Quốc Phòng Mỹ vỡ lẽ ra rằng “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, cần một số tay thiện xạ tinh luyện hơn là dùng xe pháo mã.
Tối thứ Bảy, hai Tiểu Đội người nhái SEAL của Hải Quân Mỹ đã được kín đáo thả dù xuống mặt biển. Họ được chia phiên túc trực bên sau cây súng bắn tỉa MK11 chính xác nhất thế giới, từ khi được lặng lẽ vớt lên tàu chiến Bainbridge tới hoàng hôn ngày Chủ Nhật. Họ đã có hơn một dịp để nổ súng, nhưng họ vẫn được lệnh chờ. Lúc 7:19 phút, qua ống ngắm hồng ngoại tuyến, họ trông thấy 2 tên cướp nhô đầu lên ở chỗ trống, tên thứ ba nâng súng lên, chỉa vào thuyền trưởng Phillips. Phó Đô Đốc Frank Castellano gọi một cú điện thoại nữa về Toà Bạch Ốc, báo tin tính mạng thuyền trưởng Phillips bị tột cùng lâm nguy. Không ngần ngừ nữa, Tổng Thống Obama cho lệnh bắn. Frank Castellano chuyển lệnh tới Trưởng Toán Người Nhái. Ba xạ thủ đã sẵn sàng sau đuôi chiến hạm bập bềnh, họ phải nổ súng cùng lúc, mỗi người đã chọn một hải tặc trên cái phao cứu sinh cũng bập bềnh làm mục tiêu, và mục tiêu phải dứt điểm bằng một viên đạn độc nhất —không có viên thứ nhì. Bắn trật, hay bắn không cùng lúc, tên hải tặc nào đó sống sót sẽ bắn Thuyền trưởng. Trưởng toán đếm ngược, năm, bốn, ba. Khi trưởng toán đếm tới hai, súng nổ. Ba phát, ba tên cướp cùng trúng đạn một lúc. Lính Mỹ ùa xuống thuyền bơi qua phao cứu sinh, cỡi trói cho Thuyền trưởng. Cả thế giới thở phào nhẹ nhõm, trút gánh nặng tinh thần kéo dài suốt bốn ngày rưỡi.
Trong lục địa Hoa Kỳ hay ở chiến trường Afghanistan và Iraq, khi cần dùng chỉ một vài tay súng lão luyện và can đảm để thanh toán một mục tiêu khó nuốt, luôn luôn người ta cầu viện SEAL —Người Nhái Hải Quân. Thành phần tinh nhuệ nầy cũng đã được sử dụng từ hồi chiến tranh Việt Nam, họ đã tạo những chiến công mà phía địch cũng phải tìm tòi, nghiên cứu. Và có lẽ chiến công lẫy lừng nhất là cuộc đột nhập vào sâu trong phòng tuyến địch để giải thoát cho Trung Tá phi công Iceal Hambleton trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa bị rớt máy bay bên bờ sông Thạch Hãn, do hai người hùng thực hiện: Trung Úy Người Nhái SEAL Tom Norris và Trung Sĩ Nguyễn Văn Kiệt thuộc Liên Đoàn Người Nhái Việt Nam Cộng Hoà. Câu chuyện có thật về cuộc giải cứu nầy đã được Darrel Whitcomb viết thành sách tựa đề “Cuộc Giải Cứu Bat-21”, và nhà văn William Charles Anderson viết cuốn “Bat*21”, tới năm 1988 được đạo diễn Peter Markle quay thành phim mang cùng tên.
“BAT 21”
Khi máy bay trúng đạn vào ngày lễ Phục Sinh 2-4-1972 trên bầu trời Khu Phi Quân Sự, Trung Tá Hambleton đã kịp nhảy ra khỏi chiếc tàu do thám không vũ trang nổ tung với xác 5 chiến hữu, từ trên cao độ 31.000 feet. Chiếc dù đã mang người phi công 53 tuổi mang bí danh “Bat 21” (Dơi 21) với một kho hiểu biết về Tình Báo Quốc Phòng và điện toán trong đầu mà Ngủ Giác Đài không thể để lọt vào tay quân cộng sản. Cuốn phim do Gene Hackman và Danny Glover diễn đã mang lại nhưng pha sôi động nghẹt thở và kỳ thú, nhưng đã không nói lên tất cả câu chuyện —những tình tiết đáng kể và có thực.
Ký giả John Haseman nhận xét rằng đạo diễn và đoàn làm phim cũng như giữa chúng ta ít người biết được về một người nhái của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà tên Nguyễn Văn Kiệt đã nhận được huy chương Đệ Nhị Đẳng Anh Dũng Bội Tinh của Hải Quân Hoa Kỳ, do Tổng Thống Mỹ tặng, dành cho chiến công của anh trong ngày 13-4-1972, khi anh cùng Tom Norris coi thường gian nguy để cứu mạng Trung Tá Hambleton. Kiệt là một trong hai người ngoại quốc được ân thưởng huy chương cao quý nầy —người kia là một Binh Nhứt thuộc Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 51 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, tên Trần Văn Bảy. Vào ngày 19-2-1967, trong một trận bị phục kích bất ngờ bằng súng trường và súng liên thanh của số quân việt cộng đông đảo ở quận Hiếu Đức, tỉnh Quảng Nam, anh Bảy đã anh dũng hy sinh tính mạng để cứu binh sĩ Đại Đội G, Tiểu Đoàn 2, Lữ Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Trong lúc giao tranh ác liệt, anh Bảy phát hiện một bẫy của đối phương sắp giết chết Binh Nhứt Thủy Quân Lục Chiến Samuel Vitello. Không ngần ngại, anh đã nhanh tay xô Vitello xa cạm bẫy để tránh cái chết, còn bản thân anh trở thành lá chắn, hứng trọn cú nổ, thay thế cho quân nhân đồng minh. Nhờ đó, Binh Nhứt Vitello thoát hiểm với vết thương rất nhẹ, còn Trần Văn Bảy tử thương.
Ký giả John Haseman mổ xẻ rằng phần liệt kê thành tích do Bộ Quốc Phòng Mỹ phổ biến quá ư tổng quát, do thời điểm mà Kiệt nhận được huy chương vào năm 1976 là giai đoạn mà các chi tiết quanh vụ giải cứu còn được giữ bí mật. Còn kịch bản cuốn phim Bat 21 soạn theo tiểu thuyết của William Anderson viết năm 1983, tuy dựa vào câu chuyện có thật, nhưng vẫn là một sản phẩm của tưởng tượng vì chế độ bảo mật của quân lực Mỹ. Kết quả là cuốn phim có nhiều điểm trùng khớp với sự thật trong đời, nhưng cả cuốn sách lẫn cuốn phim chẳng hề nhắc một chữ về nhân vật chính, là Kiệt hay Norris, hay bất cứ thành viên SEAL nào đã tham dự vào cuộc giải cứu không tiền khoáng hậu nầy.
Mãi tới năm 1980, thông tin liên quan tới cuộc hành quân táo bạo nầy mới được giải mật và đưa toàn bộ chi tiết cuộc giải cứu ra ánh sáng. Trung Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Kiệt là một trong nhóm 5 người Biệt Hải từ căn cứ Đà Nẵng tình nguyện tham dự nhiệm vụ hiểm nghèo kéo dài 12 ngày. Nhưng cuối cùng, anh là người lính Biệt Kích duy nhất kết hợp với Trung Úy Norris của toán Đặc nhiệm SEAL số 158 để đi vào lòng địch trên sông Miêu Giang để lùng kiếm Trung Tá Hambleton. Bấy giờ, Norris là một trong những quân nhân mang sắc phục SEAL ít ỏi còn có mặt ở chiến trường Việt Nam, và đây là giai đoạn thứ nhì của anh. Kiệt cao 5 feet 5 inch, trong khi Norris cao 5 feet 9; hai người đã kết hợp thành một tổ, sinh tử có nhau, để nhận cái sứ mạng trên lưỡi hái tử thần mà Không Quân Hoa Kỳ liên tiếp thua cuộc từ một tuần lễ nay. Đối với một người nhái Biệt Hải, đây là sứ mạng để đời của họ.
Nguyễn Văn Kiệt sinh ngày 23-3-1945 gần Sài Gòn. Anh gia nhập Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà năm 1963 và thoạt đầu được huấn luyện để trở thành nhân viên lái thuyền tuần tiểu, vừa là xạ thủ súng máy, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, sau đó công tác tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Năm 1970, Kiệt tình nguyện vào Liên Đoàn Người Nhái. Từ 1970 tới 1973, anh được biệt phái tham dự khoá thí điểm “lùng tìm và giải cứu” để học về kỹ thuật phá hoại ngầm dưới nước dành cho toán viên SEAL do Norris chủ trì.
Cuộc giải cứu “Bat 21” và Trung Úy phi công Mark Clark (mật danh Nail 38) bị bắn rớt ngày hôm sau không những là cuộc lùng tìm và giải cứu quy mô nhất của Không Quân và Lục Quân trong suốt chiều dài cuộc chiến tranh Việt Nam, mà còn là cuộc hành quân với tổn thất nặng nề nhất về nhân mạng và máy bay chiến đấu thực hiện trong phạm vi tỉnh Quảng Trị, trong thời điểm phần lớn quân lực Hoa Kỳ đã triệt thoái. Mấy tuần trước đó, 30.000 quân chính quy bắc việt đã công khai vi phạm hiệp định Geneve 1954, tràn qua vỹ tuyến 17, bất thần đánh úp và xoá sổ Sư Đoàn 3 Bộ Binh Việt Nam, và chiếm cứ phân nửa đất đai tỉnh Quảng Trị. Hoa Kỳ dựa vào các Pháo đài bay B-52 và các loại máy bay oanh kích khác để yễm trợ cuộc chiến đấu của nam Việt Nam. Chỉ tính riêng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6-1972 của Mùa Hè Đỏ Lửa, Mỹ đã gởi 6.000 phi tuần tham chiến, và các phi vụ oanh kích nầy chỉ có thể ném bom trúng mục tiêu hay không là nhờ những phi công như Iceal Hambleton bay loại máy bay điện tử Douglas EB-66 làm nhiễu hệ thống radar và các mạch truyền tin của đối phương để dọn đường trước.
Khi bị trúng hoả tiễn địa không của địch, chiếc dù của Hambleton đã xuống cạnh con đường tiếp liệu bận rộn của cộng sản giữa Khu Phi Chiến và sông Miêu Giang —một nhánh chính của sông Thạch Hãn từ hướng Tây đổ xuống, chảy giữa Quốc lộ 9 đi Lào bên bờ Nam và Tỉnh lộ 8B bên bờ Bắc. Khi vào vùng nhận nhiệm vụ, Trung Tá Hambleton và 5 đồng đội trên con tàu định mệnh biết họ bay vào hang cọp, bên dưới là hai Sư Đoàn lính chính quy cộng sản trang bị các giàn phòng không SA-2 cùng hàng trăm họng súng bắn máy bay khác. Khi vừa đảo một đường bay để bay trở lại hướng nam, máy bay họ trúng một trái hoả tiễn và nổ tung. Hambleton thoát chết nhưng một ngón tay bị rách toạc, trên mình ghim lăm răm các mảnh kim khí của xác máy bay, bị trẹo xương sống phải đi cà nhắc.
Ông phải ôm vết thương luồn lách các đơn vị địch đông đảo với hệ thống phòng không chằng chịt nhất trong toàn cuộc chiến, tính tới nay. Như mọi nhân viên phi hành khác, Hambleton mang theo mình chiếc radio thoát hiểm có thể phát tiếng bíp hoặc tiếng nói của người. Cứ mỗi vài giây, ông phải mở máy một lần để xem có ai nghe được tín hiệu cứu cấp của mình không. Sau đó, ông đã liên lạc được và biết là sắp có toán cấp cứu tới. Chỉ ít phút sau khi dù xuống đất, chiếc trực thăng mang mật mã Blueghost 39 vào vùng để bốc Hambleton nhưng vừa rời Quốc Lộ 1, tàu gặp phải hoả lực ồ ạt từ dưới đất bắn lên, họ không biết Hambleton rơi ngay vào giữa sào huyệt địch. Chiếc trực thăng bị bắn rơi, tất cả Phi Hành Đoàn vừa bị bắt sống, vừa bị tử nạn, không ai chạy thoát. Ngày hôm sau, chiếc máy bay quan sát OV-10 do Trung Úy Mark Clark và William Henderson cầm lái đã bị bắn hạ khi đang quanh quẩn trên đầu Hambleton để tìm cách hướng dẫn phi pháo bảo vệ ông. Hai phi công đã nhảy dù kịp, nhưng trong khi Clark xuống dù ở bờ Nam và lẫn trốn chờ giải cứu, Henderson bị bắt sống ngay khi dù chạm đất.
Liên tục hai ngày sau đó, hàng trăm phi tuần phóng pháo đã vào vùng ném bom và bắn đại liên để ghìm những xạ thủ bắc quân. Đây là hành động hết sức nguy hiểm, nhưng Không Quân Mỹ không bỏ rơi đồng đội. Qua hệ thống định vị tầm xa, Không Quân Mỹ có thể xác định vị trí của Hambleton không sai biệt quá 30 feet, nhưng họ không thể đến với ông, vì ông lọt vào giữa khu vực lèn kín 30 ngàn tay súng địch. Ban đêm, máy bay Mỹ quần thảo trả trái sáng để duy trì tinh thần và phương hướng cho phi công lâm nạn, ban ngày, họ thả mìn thành một vòng đai bao bọc chung quanh để đối phương không ăn tươi nuốt sống ông. Tới ngày 6-4, phía Mỹ gởi tới 52 cặp phóng pháo cơ và 4 phi tuần B-52 để dọn đường cho chiếc trực thăng khác vào bốc Hambleton trước, Clark sau.
Tại phi trường Đà Nẵng, Đại úy Peter Chapman tình nguyện bay chuyến bay giải cứu, mặc dù tên ông không nằm trong danh sách bay, vì ông chỉ còn vài ba hôm nữa là đáo hạn, trở về nước. Cùng với viên phi công phụ và bốn xạ thủ đại liên khác, họ thành một Phi Hành Đoàn, mang tàu vào vùng bão tố. Tất cả các toạ độ yêu cầu đã được đánh bom và im tiếng súng, nhưng khi chiếc Jolly Green 67 đang xuống sát Bat 21, tất cả bốn phía đồng loạt nổ súng. Quanh làn khói xanh báo hiệu an toàn là các thứ súng phóng lựu và đại liên ồ ạt nhã đạn. Đại úy Chapman hover tàu xuống bên trên đầu Hambleton, nhưng trực thăng của ông trúng đạn. Ông kéo tàu lên nhưng đã quá muộn, tàu bắt lửa, gảy làm đôi, nghiêng qua một bên, rơi xuống đất, vỡ tan tành gần chỗ Clark ẩn núp. Một tiếng nổ kinh hồn kết liễu số mạng của toàn bộ Phi Hành Đoàn 6 người hùng coi nhiệm vụ giải cứu cao hơn cái chết.
Ngày hôm sau, một chiếc quan sát OV-10 nữa mang mật danh Covey 282 do Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến Larry Potts cầm lái đang bay chỉ điểm đã bị bắn cắm đầu xuống sát chỗ chiếc Blueghost 39 rơi hôm trước, thêm hai phi công nữa được ghi tên lên danh sách cần được giải cứu. Tin tình báo sau đó cho hay Trung Úy Potts chết trong tay địch và xác không bao giờ được tìm thấy, tên ông là một trong nhưng quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.
Sang tới ngày 9-4, tình thế của phía Không Quân kể như vào chân tường. 5 máy bay đã bị tiêu hủy, 15 phi công Mỹ thiệt mạng, 2 người bị bắt sống, 2 người mất tích. Đích thân Tướng Creighton Abrams —Tư Lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam— ra lệnh cấm bất cứ phi vụ trực thăng nào vào tiếp cứu. Một tổ “lùng tìm và giải cứu” (SAR) được điều tới vùng dầu sôi lửa bỏng, gồm có Trung Úy người nhái Norris, Trung Sĩ Nguyễn Văn Kiệt, và 4 biệt kích người nhái Việt Nam khác nữa. Họ được lệnh bơi ngược dòng Miêu Giang còn hai phi công Mỹ được hướng dẫn lần đường ra bờ sông và bơi xuôi dòng, để được cứu. Trong ngày 10-4, Nguyễn Văn Kiệt cùng toán của mình trốn trong một cái lô cốt bị pháo tan tành nằm trên bờ Nam sông Miêu Giang, sẵn sàng với kế hoạch giải cứu.
Họ tính đi tìm Clark trước. Họ không liên lạc được bằng radio với Clark hay Hambleton, nhưng có thể báo cáo về người chỉ huy toán SEAL tại hậu cứ, Trung Tá Andy Anderson. Trưởng toán Norris kiểm tra con nước và thấy dòng nước chảy siết không tiện cho toán của ông lội ngược dòng; anh quyết định chọc thủng phòng tuyến địch bằng đường bộ. Nương màn đêm, cả toán đã đột nhập sâu về hướng tây, vào thượng lưu con sông, trong khi tài sản quý nhất còn lại trong tay Clark và Hambleton để đánh đổi sự sống là chiếc radio không vào nước URC-64. Dò từng bước chậm rãi trong bóng đêm đen kịt, họ luồn lách giữa những dảy xe tăng, xe chở quân, và các toán tuần tiểu —một công việc nguy hiểm và mất mạng do bất cứ sơ hở nhỏ nhặt nào. Bộ Tham Mưu Hành Quân ở hậu tuyến biết chuyến đi sẽ vô cùng nguy hiểm, nên đã ra lệnh cho Norris không được lấn sâu quá một cây số tính từ điểm xuất phát, nhưng trên chiến trường, những người nhái gan dạ biết rằng một cây số sâu vào lòng địch e không đủ gần với các phi công lâm nạn, nên họ tiếp tục tiến sâu hơn. Khi kiểm tra lại, họ mới biết họ đã đi quá xa, tới 2 km về phía thượng nguồn.
Trung Úy Clark nhận được tín hiệu thả trôi xuôi theo dòng nước xuống điểm hẹn với toán cảm tử. Kiệt nhận ra được Clark đang trôi lúc khoảng 2 hay 3 giờ sáng nhưng khi sắp sửa nhảy ra kéo Clark vào thì một toán tuần tiểu của địch khác xuất hiện, nên đành để anh chàng lướt qua. Ngồi sát mé nước chờ toán việt cộng qua khỏi, Norris bơi theo, nhưng dòng nước xoáy chảy siết, anh đã mất hút Clark. Bơi vào bờ, anh lần tìm dọc mé nước, và gặp lại toán của mình ở chỗ cũ hồi nào không hay. Cả bọn lùng quanh các gềnh đá và bụi rậm dọc bờ sông. Norris báo cho điều hợp viên biết tình hình, rồi kéo nhau xuôi về phía Quảng Trị. Khi những tia sáng đầu tiên của mặt trời sắp ló dạng, Norris thấy một vật gì cử động: Clack đang lẫn trốn sát bờ.
Mặc dù đã tìm được phi công lâm nạn, nhưng cả toán đã vào rất sâu trong đất địch nên việc rút về phòng tuyến bạn không đơn giản chút nào. Họ lần đường giữa chi chít quân địch, bò về lại lô-cốt bị pháo, nơi chọn làm điểm hẹn. Giữa cơn mưa pháo và ăn no đạn phóng lựu, toán người nhái tìm cách đưa được Clark về chỗ an toàn. Buổi chiều, Clark được Thiết Giáp đưa về căn cứ Cửa Việt, sau đó trực thăng bốc về Đà Nẵng. Tom Norris và toán người nhái của mình vẫn nằm lại chiến trường. Nhiệm vụ của họ chưa hoàn tất, trường hợp Trung Tá Hambleton chưa có kết quả, và rối rắm hơn nhiều. Bị thương khi xuống dù, cộng với một tuần lễ luồn lách, ông núp kỹ cách bờ sông lối một dặm. Phi công bay trên trời hướng dẫn ông tìm cách cắt ngang qua các bãi mìn và những ổ súng của địch. Vì không có bản đồ khu vực, phi công trên cao dùng mật mã để chia thực địa thành những lỗ đánh golf, là môn thể thao tủ của Hambleton, để dắt ông đi. Vào lúc sắp sửa bỏ cuộc vì kiệt sức, Hambleton thấy dòng Miêu Giang trước mặt, trong khi đạn pháo của việt cộng liên tục nả vào các vị trí đồn trú của Việt Nam Cộng Hoà dọc mé sông. Hambleton thấy xe tăng địch trên cầu Cam Lộ và dùng radio hướng dẫn phi pháo oanh kích để ngăn bộ binh địch tấn công, và làm an lòng quân Việt Nam Cộng Hoà, nhưng trong cơn hỗn loạn, bom đã đánh trúng lô-cốt dùng làm điểm tập kết nơi các Người Nhái đang cố thủ, làm Trung Úy Vũ Ngọc Thơ và một Biệt Hải khác bị thương, cần phải tải thương gấp.
Vào lúc chập tối ngày 12, Norris cùng 3 người nhái còn lại trong đó có Kiệt bò ra bờ sông. Chứng kiến con số địch quá đông đảo và hy vọng sống sót trở về quá hi hữu, một trong hai lính Biệt Hải của toán thẳng thừng từ chối hành quân, “không theo lệnh một sĩ quan Mỹ, để đi cứu một người Mỹ khác”. Norris đã thuyết phục họ đi chung với toán để khỏi lạc đường là giải pháp cuối cùng để toàn mạng trở về, rồi cả 4 người lội ngược dòng khoảng 4 km sau khi né được nhiều toán tuần tiểu việt cộng. Vẫn không kiếm được Hambleton trong khu vực địch quân dày đặc như kiến, Norris và Kiệt dẫn toán rút lui về lô-cốt. Với 2 Biệt Hải đã từ chối thí mạng, Norris nhận định tình hình, và thấy không lợi lộc gì khi bắt những người đã chùn chân vào những đặc vụ sinh tử thế nầy. Qua ngày 13, anh đã quyết định một mình bò trở lại vào vùng địch để kiếm Hambleton. Đó là lúc Nguyễn Văn Kiệt tình nguyện đi theo. Về sau, Kiệt kể lại:
– Đó là phận sự của tôi. Trung Úy Norris là sĩ quan SEAL tốt nhất trong tất cả các sĩ quan người nhái. Tôi biết Trung Tá Hambleton khắc khoải chờ trông chúng tôi trong khi các người nhái Việt Nam trong toán tôi đã bỏ cuộc, như thế là khó khăn cho Tom quá. Thành thử, tôi bảo Tom: “Nếu anh tới luôn, tôi cũng tới. Nếu anh bỏ cuộc, tôi cùng về”.
Đêm 13-4, Norris và Kiệt hoá trang làm lính việt cộng và luồn lách ngược sông Miêu Giang lần nữa, tới một ngôi làng bị bom san bằng, và gặp một chiếc thuyền nan còn dùng được. Nhảy vội vào thuyền, cả hai lặng lẽ chèo lẹ tay đâm thẳng vào bóng đêm, ngược dòng nước, sâu vào lòng địch, vượt qua những cụm súng máy của việt cộng và những chỗ xe tăng gầm gừ. Sương mù che dấu 2 người, nhưng sương cũng làm cho việc chèo chống đúng hướng hầu như không thể được. Lại ra chỗ trống trãi nữa rồi. Họ giật mình nhận ra ghe đang lướt qua ngay dưới gầm cầu Cam Lộ, bên trên xe cơ giới cộng sản đang chuyển quân qua cầu, may mắn là địch không phát hiện. Họ biết họ đã đi quá điểm dò tìm Hambleton, nên cấp tốc quay ghe lại, cặp sát bờ may ra tìm thấy Bat-21.
Sau cùng họ cũng tìm ra, Hambleton nằm trên vũng bùn trên bờ Nam con sông, được vài bụi cây che phủ. Ông còn thở, nhưng mê sảng vì cơn sốt. Sau 12 ngày vật lộn với tử thần, ông sụt 45 pounds vì chịu vết thương hành và uống nước dơ dọc đường. Điều quan trọng là ông còn thoi thóp thở. Mười hai ngày trong lòng địch, Hambleton ngày trốn đêm khập khiểng đi giữa bom chưa nổ và giữa những bãi mìn, uống từng hớp nước mưa đọng trong hố bom và ăn những trái ngô sót lại trong nương rẫy vùng đồng khô cỏ cháy. Norris dùng radio phát tín hiệu cho hậu cứ biết đã tìm ra mục tiêu sống, và sắp sửa rút lui. Norris và Kiệt phải vất vả lắm mới giúp Hambleton lên thuyền được. Hai người dấu người bị thương ở lòng thuyền, bứt lá chuối che phủ Hambleton trước khi vội vã chèo xuôi xuống hạ nguồn. Trời rạng sáng, sương tan, màn ngụy trang giả dạng làm bộ đội không khá giữa ban ngày. Một tổ lính VC đã tình cờ phát hiện được chiếc xuồng của biệt kích và nổ súng liên tục, làm Norris phải gọi radio xin vừa phi pháo vừa pháo binh mặt đất bắn thật gắt dọc hai bờ sông để ngăn địch quân đón đường 3 người.
Một tổ tuần tiểu khác của địch vừa gọi í ới báo cho nhau biết đã phát hiện biệt kích, vừa đuổi theo sau con thuyền mong manh, nhưng Kiệt bình tỉnh dùng quỷ kế làm địch quân rối loạn để ba người thừa cơ tẩu thoát. Vừa chèo, Kiệt vừa chờ đợi viên đạn nào đó từ họng súng địch kết liễu đời mình, Một họng súng đại liên khác đã nả đạn như mưa xuống con thuyền nhưng, như bản tuyên dương chiến công ghi rõ, “Đặt nhiệm vụ cứu phi công Mỹ làm trọng tâm, Kiệt đã tấp thuyền vào sát bờ để lẩn trốn, một mặt xin phi pháo bắn thẳng vào các vị trí địch sát cạnh mình”. Về chi tiết nầy, cựu sĩ quan Whitcomb có dự phần trong nhiệm vụ giải cứu nầy đã viết, “Phi công oanh tạc cơ đã chọn lối đánh bom thật thấp… trên ngôi làng và đã thực hiện việc cắt bom với độ chính xác tuyệt đối, cho đến khi các mục tiêu bị xoá sổ hoàn toàn. Cả sau khi ném hết bom nổ, họ còn bay xuống sát ngọn cây để ném nhiều trái khói M47, tạo một màn khói dày đặc để che chở cho toán của Kiệt và Norris”.
Sau đó, cặp bài trùng gan lì nầy lại chuyển Hambleton từ bờ xuống thuyền, chèo nhanh về điểm tập kết ở lô-cốt đổ nát trong khi một số máy bay võ trang của Mỹ ứng chiến sẵn, trong trường hợp tuyệt vọng nhất, họ sẽ bay bừa vào lưới đạn địch để cứu toán người nhái và phi công Hambleton. Khi họ về gần tới lô-cốt, trên bờ Bắc sông Miêu Giang tập trung đông đảo lính việt cộng, bên bờ nam, lính Việt Nam Cộng Hoà phòng thủ. Giữa làn đạn hai bên bắn dữ dội vào nhau, Norris và Kiệt làm công việc gian nguy cuối cùng, là vực Hambleton từ khoang thuyền lên bờ. Trung Tá Hambleton không bước nổi nữa. Trong làn đạn giao tranh chi chít, lính Việt Nam Cộng Hoà trên lô cốt chạy ùa xuống dìu ông lên đồi. Norris làm các khâu cứu thương thường thức cho Hambleton trước khi bộ ba được một thiết vận xa M-113 đến đón về hậu cứ an toàn ở thị trấn Đông Hà, kết thúc một cuộc lùng tìm và giải cứu vô song với kết quả 234 huy chương các loại được truy tặng cho những người lập chiến công.
Ngày 6-4-1976 tại căn cứ Hải Quân Sand Point ở Seattle, tiểu bang Washington, trước sự hiện diện của chiến hữu Thomas Norris, Nguyễn Văn Kiệt được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên dương công trạng và gắn Anh Dũng Bội Tinh Đệ Nhị Đẳng của Bộ Hải Quân, cho thành tích anh hùng của anh. Khác với Trung Úy Norris được trao tặng Anh Dũng Bội Tinh Đệ Nhất Đẳng cho công trình giải cứu Trung Tá Hambleton và Trung Úy Clark, Kiệt chỉ nhận được huy chương thấp hơn không phải vì sự can đảm nhiều hay ít hơn giữa hai người, mà vì luật Mỹ quy định huy chương cao quý nhất dành cho một cá nhân không trực thuộc quân lực Hoa Kỳ, chính là loại huy chương mà Kiệt nhận được. Bên cạnh huy chương của Mỹ kể trên, trong thời gian quân ngũ, Trung Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Kiệt còn nhận được 3 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Đồng và 2 Chiến Thương Bội Tinh của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Sau khi cuộc giải cứu thành công, Kiệt đã được gởi đi thụ huấn khoá phá hoại ngầm dưới nước, và khoá huấn luyện SEAL cao cấp do Hải Quân Mỹ tổ chức tại Phi Luật Tân. Sau đó, Kiệt được đặc phái đi bất cứ nơi đâu trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà có nhu cầu chiến trường đòi hỏi, từ vùng hoả tuyến tới mũi Cà Mâu. Trong một đặc vụ anh đã bị trọng thương trong trận việt cộng tấn công căn cứ Hải Quân Rạch Giá. Xuất viện, anh được phái tới làm huấn luyện viên cho Trung tâm Huấn luyện Hạ Sĩ quan Người Nhái tại Cát Lái gần Thủ Đức. Trong những ngày cuối của miền nam, dưới trận địa pháo như mưa của cộng quân, căn cứ Cát Lái được lệnh di tản, Kiệt lưu lạc tới đảo Guam, rồi tới trại Pendleton ở California. Sau đó anh được một giáo sư hồi hưu bảo trợ để về thị trấn Forks, tiểu bang Washington, làm việc trong một lâm trường. Tới năm 1984, anh nhập quốc tịch Mỹ, và dời ra Seattle, làm việc cho công ty máy bay Boeing ngót 20 năm, trước khi về hưu năm 2005.
(Còn tiếp)
NgyThanh
Xin mời xem tiếp Kỳ 2
No comments:
Post a Comment