Thương anh quá người chiến binh Biệt Động
Trước
đạn thù bất luận Hạ Thu Đông
Trấn
biên cương thề quyết tử một lòng
Đem
an bình cho non sông xã tắc.
Nêu
chí dũng vẫy vùng trong lòng giặc
Biệt
Động Quân tiếng “SÁT” dậy trời Nam
Chiến
công anh rực rỡ ánh huy hoàng
Quân
hùng sữ nét son trang hiển hách.
Người đàn ông đoán chừng ngoài ba mươi tuổi, nước da xanh mét, hàm râu tua tủa, mặt mày hốc hác bệnh hoạn, bận quần nhà binh bạc màu, áo sơ mi không biết màu trắng hay nâu, lấm tấm dính nhiều vết mũ cây, lưng mang ba lô nhà binh bạc màu, hai túi hai bên rách toe, đứng tần ngần trước ngôi nhà nhỏ xinh xinh, miệng lẫm bẫm điều gì rồi xô cánh cửa gỗ bước vào.
Con chó mực từ đâu đó lao ra sủa inh ỏi nhảy chồm lên tấn công, ông đứng yên một chỗ, người đàn bà nhỏ con, tóc kẹp đuôi tôm, hai ống quần đen dạng lò xo rút cao lên nữa ống quyển nhảy phóc ra từ cánh cửa nhà bếp, nhìn dáng dấp người đàn bà, ông biết ngay người này không phải là dân ở đây, cũng giống như con chó mực, bà nhảy đong đỏng, chỉ tay vào mặt ông mồm la bai bải, tiếng hét the thé nặng trịch giọng Quảng Bình hay Nghệ An rung chuyển cả khu vườn.
-
Ai cho ông vô đây, tưởng nhà không có người lẽn vô cuỗm đồ hả? Ăn mày
cũng có tổ tiên ông bà, tại sao không về hương khói cuối năm mà còn
lãng vãng vô đây định dỡ trò lơ xẹc hả? Xéo mau! Xéo mau! Không bà
gọi Công an bây giờ.
Người
đàn ông đứng lặng người ngơ ngác không biết phải nói sao đành trả lời.
-Thưa
chị! tôi vào đây để hỏi thăm người quen.
Bà
trợn trừng mắt quát:
-Không
ai chị em quen biết chi với ông thứ dân móc túi bến xe bến tàu
ra khỏi đây mau.
Người
đàn bà vung tay đẩy Ông ra cửa, phụ thêm sức cho bà con chó mực nhảy chồm
theo nhe răng táp hụt mấy lần, chủ với chó bên xướng bên tùy giống nhau
như khuôn rập.
Ông
bước thụt lùi ra, bà dóng ập cánh cửa gỗ, Ông bực bội đổi lối xưng hô.
-Này
bà thím, đây là nhà của tôi, vợ tôi tên Diệu, mấy năm nay tôi ở tù, mới được thả
ra, tôi về nhà tôi, bà không hỏi lý do tại sao tôi vào đây, bà cho tôi là quân
ăn cắp, bà nói nhà của bà.
Mới
nói ngang đó bà trợn to hai mắt nhìn người đàn ông bà ngắt ngang câu hỏi
trả lời liền.
-
Ông là chồng cô Diệu hả, chồng từ kiếp nào chứ kiếp nầy thì không phải, Chồng
cô Diệu tên Hát vợ chồng họ đã bán nhà này cho tôi rồi, được chưa, vào trộm
đồ không được đặt chuyện nói linh tinh bậy bạ, thôi làm ơn xéo đi cho bà nhờ.
-
Tôi hiểu rồi cám ơn thím.
Vợ
chồng Diệu + Hát đã bán nhà cho bà ta, hai cái tên như tiếng bom nỗ điếc tai
hoa mắt, máu nóng dồn lên não, người đàn ông hồn vía bay mất, mắt tối sầm lão đảo
bước trên phố vắng chiều cuối năm.
Ông
nghiến chặt răng cố dằn tâm nín lặng, nhưng sao nước mắt cứ trào ra, lồng ngực
căng phồng khó thở, ông đành buông xuôi theo bản năng tự nhiên của thân xác,
ông cho nó tự do, muốn khóc thì cứ khóc, ông khóc thảm thiết như lúc hạ huyệt
người thân, khóc vì chua xót tình đời, khóc vì vở tuồng chồng vợ đã diễn ra
ngoài suy nghĩ đơn thuần của ông:
Đó
là lời hứa trước đấng tối cao, của Diệu, của người con gái có học trong gia
đình đạo đức, đã cầm tay nhau, trao nhẫn cho nhau, đã nhận ông làm chồng.
Ông
nghĩ mãi không ra, câu hỏi tại sao? Tại sao? Cứ xoáy trong não ông đau buốt.
Ông
hỉ mũi lấy tay vốc vất mạnh xuống đường lỗ mũi thông thở nhẹ nhàng, tâm hồn trở
lại thanh thản sau khi chạm đích tột cùng của khổ đau hụt hẩng, tất cả đắng cay
đã rơi theo vốc nước mũi nằm đống trên mặt đường.
Ông bước đi như trốn chạy không dám quay lại nhìn đống xú uế, như cơn lốc xoáy thổi qua cuốn theo mọi thứ còn lại hoang tàn xác xơ.
Đi về đâu giữa chiều ba mươi tết, từ trại tù ra chỉ còn cái ba lô rách với bộ đồ tù sọc trắng sọc đõ đeo tòng teng sau lưng. Chiều hôm qua tới giờ chẳng có chút chi trong bụng, tinh thần suy sụp, tim nhói đau, vi trùng sốt rét đang thừa dịp tấn công, luồng rét nhức xương sống tràn ra chạy ngược lên đầu, chạy xuôi xuống hai chân, thân hình co rút cơn rét giật quặn thắt cơ bắp không thể bước thêm một bước nào nữa.
Ông
tựa lưng vào trụ đèn đường run cầm cập rồi thiếp đi trong tột cùng mỏi mệt,
ông nằm đó không biết đã bao lâu tai mơ hồ nghe tiếng người nói,
lúc xa lúc gần.
-Hết chỗ chết rồi hay sao mà tìm tới trước cửa nhà tôi thế này.
Họ đá mạnh vào hông thử coi chết hay sống, cánh tay nặng nề Ông đưa lên giụi mắt, tiếng người đàn bà vui vẽ nói.
May
quá chưa chết, nhà cửa đâu không lo về, kiếm ăn giờ nầy ai mà cho.
Tay
run rẩy mò túi áo trên ngực, móc ra tờ giấy đưa cho bà ta thều
thào qua hơi thở:
- Tôi không phải ăn xin, tôi từ trại tù cãi tạo mới được thả về, giấy ra tù của tôi bà coi đi, tôi bị lên cơn sốt rét đi không nổi nên nằm đây, tôi quá kiệt sức vì hôm qua tới giờ không có chi trong bụng.
Bà cầm tờ giấy đi vào nhà một lúc sau ra lại với hai người con gái bà nói.
-Xin lỗi ông, thời buổi nầy chẳng biết tin ai. Vợ chồng cũng còn bán đứng nhau huống chi người lạ, chúng ta cùng cảnh ngộ, ông may mắn được về còn chồng con tôi đang nhốt ngoài Hà Nam Ninh, ông đứng dậy vào hiên nhà tôi ngồi nghĩ một lát đợi tàn nén nhang mời ông dùng tạm chén cơm, gia đình chật vật nhưng chiều 30 cũng cố gắng cúng lễ ngoài trời để xin bình an cho chồng con trong trại tù không biết ngày nào thả ra.
Mân
cơm cúng được bưng đặt vào hàng hiên, Ông ngồi vào chiếc ghế mũ thấp bưng chén
cơm múc mấy muỗng canh măng chan vào, gắp cục thịt heo kho tàu cho vào
chén, Ông ăn chỉ chừng đó, đặt chén đũa xuống. Bà chủ nhà ngạc nhiên hỏi:
-Ông
đang đói tại sao không dùng thêm.
Ông thưa
với người đàn bà tốt bụng.
-Trong
trại tù mỗi bữa ăn đơn vị chia cơm là muỗng, lâu ngày bao tử hẹp lại cơm
ngon như thế nầy cũng không thể dùng nhiều hơn.
Ông đứng
dậy nói
-Cám ơn bà đã cho bữa ăn, đây là bữa tiệc đầu đời của tôi, tôi xin ghi nhớ suốt đời. Tôi cũng cầu chúc cho Ông và các anh sớm thoát khỏi cảnh tù đày, lần nữa tôi xin cám ơn bà chúc bà năm mới mọi điều như ý.
Ông
trở lại con phố vắng, bây giờ đầu óc tỉnh táo, giải phóng, đúng, Ông đã
được giải phóng sạch sẻ, chỉ còn cái mạng, người không ra người ma không
ra ma.
Không
thể nào quên được hình ảnh người đàn bà lúc chiều, mụ ta đã góp công giãi
phóng đời Ông, ông vừa học trong trại tù, ưu việt của xả hội chủ
nghĩa không có giai cấp, mọi người bình đẵng, thế mà mụ nầy coi ông là rác rưỡi,
còn gán cho ông là loại lưu manh, móc túi, đầu đường xó chợ.
Mới hội nhập vào xả hội này chưa đầy hai mươi tư giờ đã gặp chuyện oái oăm như vậy, còn lâu dài về sau không biết sẽ ra sao.
Ông đi lang thang để tìm chỗ ngũ, đến ga tàu, qua bến xe, người giải phóng coi ông là rác, nhưng ông không dám đặt mình nằm trên rác, đi qua nhiều đường phố nhưng không tìm được nơi nào gọi là an toàn có thế nghĩ lưng qua đêm, Ông chợt nhớ tới một chỗ chắc chắn nơi đó sẽ cho Ông một giấc ngủ ngon lành.
Đó là hành lang bệnh viện.
Thân
hình ông chẳng khác gì xác chết biết đi, nên chẳng ai lưu tâm dòm ngó, hành
lang bệnh viện dài hun hút đêm nay vắng lặng, có lẽ bệnh nhân đã về ăn tết,
Ông đi quanh một vòng chọn góc khuất để khỏi thấy ánh đèn vàng hiu hắt
của mấy bóng đèn đường quanh bệnh viện, bóng đèn đường của bên thắng cuộc
cũng khác thường không chiếu sáng mà lù mù vàng đục có lẻ họ sợ ánh sáng
chăng ?
“Chỉ
có mày là người bạn trung thành của tao, đã bao nhiêu năm gắn
bó từ tấm nguyên bây giờ bươm ra như tàu lá chuối, mày và tao qua nhiều
chặng đường gian khổ tao già mày cũng già, tao gần chết mày cũng rách te
tua, xơ cứng như thân hình khô đét của tao”
Ông ngồi lên rút tấm vãi được cắt ra từ cánh tay chiếc áo cũ làm khăn mặt nhét bên túi ngoài ba lô đi tìm nhà vệ sinh kiếm nước rửa.
Đất nước xã hội chủ nghĩa cái gì cũng khác với xả hội bình thường miền Nam, nhà vệ sinh của bệnh viện thấy mà khiếp, nền nhà đầy rác xả, nước đọng lều bều không thua chi bãi chợ cá về chiều, vòi nước chảy yếu ớt, màu vàng vàng hôi mùi phèn chua rỉ sét, Ông rùng mình lờm lợm, vò chiếc khăn thấm nước vắt ráo lau mặt, cảm giác lạnh lan nhanh làm cho Ông tĩnh táo hẳn ra, mĩm cười một mình, tối nay giao thừa mai là ngày đầu của một năm, cũng là ngày khởi đầu của người về từ nhà tù, nhìn tới trước, con đường đời mình sẽ đi, giống như bây giờ đang nhìn lên bầu trời tối đen của đêm trừ tịch.
Trở
lại chỗ ngũ đứng nhìn quanh Ông nghĩ mình đã đi lộn chỗ, nhưng không
ông nhớ không lầm, ông chọn nơi khuất bóng đèn chính là góc nầy, ông không nhầm
chỗ nhưng đồ ngũ ông trải ra đây ai đó đã dọn nhầm.
-Còn
cái mạng nầy sao không ai hốt nhầm đi cho luôn.
Đặt
lưng xuống nền xi măng lạnh, đôi dép râu mòn gót làm gối, muỗi bắt
đầu tấn công, ông đứng lên với tay bẻ nhánh cây vơ vơ đuổi bầy muỗi, dựa
lưng vào góc tường mở to mắt nhìn khối đen dày đặc đang trùm kín không gian,
suy nghĩ ngày mai của mình cũng tối đen đặc quánh như đêm nay, đâu đó tiếng
pháo giao thừa vọng lại, đầu óc trống rổng cảm nhận mong manh
hôm nay là ngày tết.
Ông
lâm râm cầu nguyện.
Họa
phúc cõi phù du
Vui
buồn như gió thoảng
Xin
Mẹ phút bình an.
Chân như cái máy bước về phía trước nhưng không biết đi đâu, hôm nay ngày mồng một xe tàu không có, người ta có quê để về còn ông nơi gọi là chùm khế ngọt ông đã lìa bỏ lúc còn tấm bé, cùng với gia đình ông bác theo tàu há mồm vào Nam, bây giờ muốn về quê cũng không biết mô mà về, người thân duy nhất là gia đình ông bác, lần đầu tiên Diệu vô thăm nuôi cho biết gia đình bác đi đâu không biết nhà bỏ trống lâu ngày Phường đã tịch thu nhà rồi.
Ông nát óc suy nghĩ, đi đâu, làm gì, sống ra sao, trong túi không có một hào bạc, bộ áo quần mặc trong người nằm lăn nằm lóc hình như đang bốc mùi, ông ra đứng trước góc cửa bệnh viện hai mắt mở to nhìn đường nhưng chẳng thấy chi trước mặt.
-Anh Lữ! Trung úy Lữ!
Xin lỗi anh có phải Trung úy Lữ trước ở Quân Y Biệt Động Quân không?
Ông
gật đầu trả lời:
Phải
! sao anh biết tôi.
Người
thanh niên trả lời
Chắc
anh quên em, em là Chuẩn úy Thành thuộc Liên Đoàn 15 Biệt động Quân lúc đó em bị
thương đồi 50 gảy xương quai xanh vai phải, anh đích thân cấp cứu đưa thẳng
em về Quân y viện Duy Tân.
Ông
nói:
-Xin
lỗi nhiều anh em quá tôi không nhớ hết.
Thành
nói tiếp:
Em
cám ơn anh, sau thời gian điều trị được xuất ngũ là đi luôn không có dịp quay lại
đơn vị.
Người
đàn ông nói:
Nhiệm
vụ mà nói chi chuyện ơn nghĩa.
Thành nhìn
ông từ đầu tới chân hỏi:
- Sáng mồng một anh đến đây thăm ai mà sớm vậy, sao
không vô, bộ anh đang chờ bạn hả? Ai nằm trong đó, anh cần chi em nói vợ
em giúp, cô ấy đang làm việc ở đây.
Lữ
nói:
Mình
đứng đây chứ không chờ ai hết.
Thành
hỏi:
Đứng
đây làm chi?
Lữ
đáp:
Đêm
hôm qua mình ngũ trong hành lang bệnh viện, sáng nay thức dậy không
biết đi đâu ra đứng đây coi thiên hạ.
Thành
nói:
Anh
giỡn chơi hay nói thật.
Lữ cười
nói:
Cứ
nhìn con người mình thì biết nói chơi hay thật, mình từ trại tù về ngày
hôm qua, ba chân bốn cẳng chạy về nhà ăn tết với vợ, không may vợ mình lấy chồng
khác còn bán nhà của mình, gia đình ông bác đi đâu mất, nhà bị tịch thu, mình
không biết đi đâu đêm hôm qua vào ngũ trong hành lang bệnh viện, tấm ni lông trải
để nằm, cái ba lô rách để làm gối trong có cái mùng muỗi vá chằng vá chịt
với bộ đồ tù, mình đi rửa mặt ra chúng nó đã biến mất, gia tài của mình chừng
đó bây giờ không còn chi hết .
Thành
nói:
Từ
trại tù về hèn chi, em ngờ ngợ không biết phải anh không, ngày trước phong độ
điển trai bây giờ anh ra thân thể như thế này, em nghi nghi không biết có phải
anh không gọi đại té ra đúng là anh.
Lữ
hỏi:
Thành
tới đây làm chi sớm thế.
Thành
đáp:
Em
chở vợ em tới trực, chiều tới đón.
Thành
nói tiếp:
Nếu
anh không biết đi đâu em mời anh về nhà em ăn tết, không có chỗ ở thì ở lại với
gia đình em vài hôm qua tết rồi tính, nhà em rộng lắm chỉ có hai vợ chồng với đứa
con gái năm tuổi.
Suy
nghĩ một lúc Lữ trả lời:
Thật
lòng mình cũng không biết tính sao trong hoàn cảnh này nếu được Thành giúp
mình xin cám ơn, nhưng ngại quá, sợ làm phiền gia đình Thành, khi không rước một
lão tù về nhà ngày đầu năm.
Thành
cười to nói.
-Anh
yên tâm em làm theo những điều Chúa dạy:
về
8 mối phúc thật dạy rằng: Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ
được thương xót vậy. Còn thương người có 14 mối dạy rằng:
“Cho
kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc. khách đỗ nhà” v.v…
Thành
nói:
Phòng
này bỏ trống, nhà ít người ban đêm vợ đi trực hai cha con ôm nhau ngủ sớm, căn
nhà vắng lặng buồn lắm bây giờ có anh ở lại tụi em vui lắm, thêm một người nhà
thêm ấm cúng.
Lữ
cảm động nói:
Thành
giúp cho anh được ngày nào hay ngày ấy chứ bây giờ rời khỏi nhà Thành
anh không biết đi đâu, ngũ bờ ngũ bụi, không chừng chết đói ở góc xó
nào đó.
Thành
nói:
Đây
cũng là cơ duyên của anh em mình, thôi anh tắm rửa em chuẩn bị đồ ăn, anh em
mình ăn sáng rồi anh đi ngũ chớ đêm qua chắc không ngũ ngáy chi được, đau
thương phiền muộn gì cũng gác qua một bên, trước mắt ổn định sức khỏe cái đã,
em thấy thân hình và nước da của anh em biết anh đang bị sốt rét nặng, trị
xong bệnh sốt rét lấy lại phong độ, đẹp trai như anh thì ôi thôi, em còn
nhớ ở đâu đó có câu :
“Em
về điểm phấn tô son lại, ngạo với nhân gian một nụ cười”.
Hoàn
cảnh đẩy đưa như vậy thì cũng đành cắn răng chấp nhận chứ biết làm sao hơn.
Vợ Thành đi làm về chuẩn bị xong bữa cơm chiều Thành vào đánh thức Lữ dậy, Lữ áy náy vô cùng, bất cứ việc gì trong gia đình phải thuận vợ thuận chồng chứ chồng cứ đem luật gia trưởng ra áp đặt bắt vợ phải phục tùng ý của mình, đặt mọi việc trước sự đả rồi vợ chồng sinh ra lũng củng bất hòa, không biết mình có đem tới cho vợ chồng Thành sự bất an trong gia đình không.
Lữ
mau mắn theo Thành ra bàn ăn, vợ Thành đứng lên chào Lữ quay qua nhắc con gái:
Khánh
con đứng dậy chào bác đi con.
Con
bé đứng lên khoanh tay chào bác. Lữ trả lời:
Khánh
ngoan con ngồi xuống, Chào thím Thành.
Dạ
em chào anh, mời anh ngồi.
Họ
ngồi vào bàn ăn, vợ của Thành lên tiếng.
Anh
Thành đã nói cho em biết hoàn cảnh của anh, lâu nay nghe người ta nói,
nhiều người ở tù về mất vợ, mất nhà, ít ai tin đó là chuyện thật, bây giờ em
đã tin, một sự thật ngoài suy nghĩ của em, em xin chia xẻ hoàn cảnh không
may của anh, vợ chồng em đã bàn với nhau anh yên tâm ở lại với gia đình chúng
em, nhà rộng phòng bỏ trống nhiều năm, tới bữa ăn thêm một cái chén, khoảng một
hai tuần là sức khỏe của anh trở lại bình thường lúc đó ai làm nấy ăn, là ngành
Y anh cũng biết bệnh sốt rét không khó điều trị, anh coi tụi em là em của anh,
đây là gia đình mới của anh, nên đừng ngại ngùng chi hết .
Lữ
trả lời:
Cám
ơn lòng tốt của chú thím, không nhờ chú thím cưu mang trong hoàn cảnh bi đát nầy
không biết làm sao lo cho thân mình.
Thành
nói:
Như
vậy anh đã hiểu vợ chồng em rồi, anh an tâm đừng suy nghĩ chi hết, thôi mình ăn
cơm.
Sau
bữa cơm vợ Thành nhắc:
Mồng
bốn cơ quan nhà nước làm việc, anh Thành đưa anh ra phường trình giấy tờ, theo
em nghĩ anh cũng nên viết tường trình về hoàn cảnh của anh để cắt dứt
quan hệ trên pháp lý của anh với chị ấy, mình không lường trước được việc
gì sẽ xảy ra trong tương lai, việc kia chị làm được thì bất cứ việc gì chị cũng
có thể làm, để tránh rắc rối cho anh về sau anh nên suy nghĩ ý của em, nếu cần
nhân chứng có vợ chồng em đây.
Cám
ơn thím nhắc không thì tôi đã quên tờ giấy hôn thú, tôi sẽ viết tờ trình
và nhờ chú thím giúp làm chứng.
Ở
trong nhà anh cũng thấy rồi đó, ngoài việc bệnh viện về nhà em còn chích thuốc
chữa bệnh cho bà con, họ biết mình cán bộ y tế của miền Nam là tìm tới nhờ
giúp, mình giúp họ thì lấy tiền, em thì giờ không có nhiều, làm tư ở ngoài dễ
kiếm tiền nhưng không thể bỏ bệnh viện được, lương tiền không bao nhiêu mà phải
đeo bám giữ chân cán bộ nhà nước, có vậy địa phương mới không kiếm chuyện vì
mình là dân miền Nam. Anh khỏi đi tìm việc chi hết, em cho anh mượn vốn anh
ra chợ trời làm quen với các chủ sạp dặn họ để dành thuốc tây cho anh, quan trọng
là thuốc trụ sinh, còn hạn hay hết hạn anh hốt hết về đây em có thị trường tiêu
thụ, em sẽ giới thiệu cho anh một vài người quen, bà con họ đồn nhau thì anh chạy
không kịp, mình làm chui, chịu khó đi quanh đã, lần lần rồi ngồi nhà.
Anh
Lữ thắc mắc:
Chợ
trời mà cũng có bán thuốc tây sao?
Vợ
Thành trả lời:
Anh
ở tù nên anh không biết chủ trương đánh tư sản mại bản, cải cách công thương
nghiệp, các nhà thuốc tây gặp nạn này họ bị gán tội đầu cơ tích trữ, bị đóng cửa
thanh lý tài sản, nguồn thuốc thanh lý không ai dám dùng, uống bậy bạ là chết
nên thuốc từ từ ra chợ trời, đó là một nguồn, nguồn thứ hai từ các bệnh
viện Quân y của mình và các kho thuốc Quân đội, bệnh viện bây giờ dùng thuốc
các công ty dược tự pha chế giống như thuốc Xuyên Tâm liên chẳng hạn, thuốc tây
tịch thu họ bán rẻ như khoai sắn, anh cứ trả một phần ba giá họ đưa
ra, ví dụ mười đồng anh trả ba đồng rồi lên tí xíu là họ bán ngay.
Lữ
mang ơn sâu nặng vợ chồng Thành, nhờ gia đình nầy anh mới có cuộc sống hôm nay,
Lữ không tiếc bất cứ gì anh có, là một thành viên của gia đình, chứng
tỏ mình là người anh lớn Lữ cùng ghé vai chăm lo gia đình giúp cho vợ chồng
Thành, cuộc sống gia đình êm ã rộn tiếng cười ngập tràn hạnh phúc, nhiều
lần vợ chồng Thành nhắc anh lập gia đình, vợ Thành giới thiệu một vài cô
bạn thân quen cùng làm việc trong bệnh viện cho anh nhưng anh nói:
Nghe
tới chữ vợ là anh rùng mình, khi nào anh nghe chử vợ mà đầu óc bình thường
lúc đó mới nói chuyện, hơn nửa luật đạo công giáo cô chú cũng biết rồi, kết hôn
với người khác trong khi người phối ngẫu còn sống thì không được, phải ra tòa
án hôn nhân của giáo hội xét xử đã.
Vợ
Thành nói:
Đọi
đến lúc đó anh già khú đế rồi ai mà ưa anh nửa.
Lữ
cười nói:
Có
sao đâu không ai ưa thì ở với chú thím như bây giờ.
Nhờ vậy mà anh được gọi phỏng vấn HO. 2 ra đi trong diện độc thân. Ngày chia tay buồn nhiều hơn vui, anh không dám hứa hẹn điều gì vì chưa biết cuộc sống mới trên nước Mỹ ra sao, nhưng lòng anh ước ao một mái ấm gia đình, cùng chung sống với vợ chồng Thành như mấy lâu nay đã sống.
Anh đi diện đầu trọc được bão trợ về tiểu bang Ca Li, trong suốt thời gian hưởng trợ cấp của chính phủ anh dốc tâm vào việc học, rồi kiếm việc làm, cuộc sống hiện tại của anh không mấy khó khăn vì anh đã trưởng thành trong lò đào tạo giãi phóng, anh thầm cám ơn người làm tổn thương anh nhờ bài học đó mà anh đã tôi luyện ý chí, cám ơn người vợ đã lừa dối anh cho anh bài học kinh nghiệm làm người, cám ơn vợ chồng Thành đã cưu mang anh, anh thường xuyên thư về thăm hỏi cợ chồng Thành.
Với trường hợp của gia đình Thành anh đã đến trình bày và xin ý kiến của Luật Sư di trú, Luật sư gợi ý muốn đoàn tụ chỉ có một cách cưới con gái của Thành rồi sau đó con bão lảnh cho cha mẹ.
Anh
thư về cho vợ chồng Thành trình bày ý nghĩ này, đợi khi Khánh tròn hai mươi anh
sẽ xin giấy về kết hôn, đương nhiên là kết hôn đã, đó là con đường duy nhất cho
gia đình mình đoàn tụ.
Vợ
chồng Thành phỏng vấn xong Lữ mua vé máy bay về đón họ qua, anh đề nghị vợ
chồng Thành đi sớm mấy ngày, trên đường về Sài gòn ghé thăm chơi các thành phố,
tối đâu nghỉ đó coi như một chuyến du lịch đường dài.
Xe
họ ghé lại thành phố Nha Trang đứng lại trước nhà hàng tên Thùy Dương trên đường
Duy Tân, đường Duy Tân chạy dọc theo bải biển hàng dừa hàng phi lao xanh
mướt, xa xa trước mặt là dãy núi Hòn Tre, như một bình phong chắn gió cho thành
phố biển này, gió lộng mát lạnh tiếng thông reo hòa tiếng sóng rì rào từng
nhịp vổ vào bờ cát như đang hát.
Cửa
xe trước mở vợ Thành chuẩn bị bước xuống, năm bảy cô gái trước ngực mang hộp gổ
khá to đựng đủ thứ, gương lược, dầu gió, kẹo cao su, kính đeo mắt, tóm lại một
cửa hàng tạp hóa nhỏ di động họ nhao nhao mời mua, mấy người gõ hai bên cửa
kính sau hàng ghế Thành và Lữ ngồi, qua lớp kính xe, họ chỉ chỏ vào hộp
gổ có ý mời mua.
Lữ
giật mình nhìn kỉ người phụ nữ gõ cửa phía bên Thành, cái mũ xanh
lam rộng vành, dải khăn voan hồng cột trên đầu xuống cổ làm quai, hai
vành mũ hai bên che khuất gần hết khuôn mặt, còn lại bộ lông mày, hai con mắt,
sóng mũi, miệng và cằm, chỉ chừng ấy anh đã nhận ra người đó là ai, anh
ghé qua nói với Thành, hai em và chú tài xế vô trước anh ngồi lại một lát
sẽ vô sau, hai em gọi thức ăn nếu anh vô chưa kịp thì cứ dùng trước đừng đợi.
Lữ
ngồi lại trong xe một lúc đợi mấy chị bán hàng rong tản mác, anh lấy khăn lông
trùm đầu đi nhanh vào nhà hàng.
Suốt
bữa ăn Lữ im lặng không nói gì, thái độ bất thường khác hẳn mọi khi vợ
Thành áy náy hỏi:
Anh
Lữ! có chuyện chi mà trông anh khác khác, buồn buồn.
Lữ
im lặng một lúc rồi nói:
Không
có chi cả, vừa rồi trong mấy chị mời mua hàng anh thấy Diệu.
Vợ
Thành nói:
Anh
nhìn kỹ chưa hay nhìn lầm ai đó .
Lữ
trả lời:
Đúng
là cô ấy, không lầm ai khác.
Vợ
Thành hỏi tiếp:
Bây
giờ sao anh?
Lữ
vừa cười vừa nói:
Để
anh kêu cảnh sát bắt cô ta, tội lừa tình lừa tài sản, chỉ có vậy thôi chứ
biết làm sao, nói cho vui chứ thật tình thấy cô ấy anh cũng xao xuyến trong
lòng, giận cũng rồi, ghét cũng rồi, tất cả đã qua, điều thắc mắc chồng cô ấy
đâu, Diệu có học tại sao không kiếm việc chi làm mà đi bán hàng rong tội
nghiệp như vậy.
Vợ
Thành góp ý :
Gặp
nhau một lần cũng là bạn, người ta nói “Nhất dạ phu thê bách dạ ân” huống
hồ mấy năm chung sống, tình nghĩa vợ chồng, hết tình thì còn nghĩa, chị ấy
đã làm việc trái đạo lý tội ấy đương nhiên là phần của chị ấy, còn anh, anh có
mắc nợ chi mà anh lo, theo em anh tỉnh bơ gặp chị ấy, mọi chuyện cứ xuôi theo tự
nhiên.
Lữ
nói:
Anh
ngồi lại trên xe suy nghĩ, nên mở cửa bước ra gặp, hay ngồi nán lại tránh đừng
gặp. Rồi quyết định tránh không gặp đó là giữ lại chút tình với cô ấy, gặp anh
cô ấy có đủ can đảm nhìn anh không? Vui cười hay đau đớn vì tội lỗi mình đã
làm, anh gởi thím ít tiền tìm cô bán hàng đội mủ vải xanh lam có khăn voan đỏ
làm quai, cột từ trên xuống cổ, gởi tý quà cho cô ấy đừng nói tiền của anh.
Vợ
Thành đồng ý đi tìm gặp Diệu, họ nói chuyện cả tiếng đồng hồ trở lại vợ Thành
cho biết:
Như
suy nghỉ của anh, nếu anh tới mặc cảm tội lỗi chị ấy không dám đối diện với
anh, chị ấy nói nếu cuộc đời suôn sẻ như ý mình muốn thì đâu còn là cuộc đời, sự
phản bội lừa dối của chị ấy, chị ấy đã trả giá quá đắt, chị ấy gởi lời xin lỗi
anh mong anh tha thứ cho chị ấy, chị ấy né tránh nói đến cuộc sống hiện tại
và gia đình của chị ấy.
Anh
Lữ biết điều đó thỉnh thoảng chia xẻ tý quà nhờ vợ Thành chuyển.
Lữ
nói với vợ Thành:
-Nhờ
thím chuyển lời, cô ấy cần gì anh sẵn sằng giúp.