Ông
Tư và ông Năm có một những ngày tuổi thơ rất xanh màu da trời và rất
hồng màu ráng chiều, nghĩa là ở một vùng quê có dòng suối Sầu Đâu và
dòng sông Tam Mỹ. Dòng suối chảy vòng vòng qua những làng trên xóm dưới.
Dòng suối cạn nên hai đứa bé cởi bò, bơi qua suối trong những ngày mùa
gặt, cả khu Đồng Đất ồn ào rộn rịp, ca bài ca gánh gánh gánh gánh thóc
về.
Những ngày tuổi thơ vắt ngang lưng những sợi tơ vàng, khu Đồng Đất, xóm
Gò, suối Sầu... Người mẹ tất tả sáng sớm thức dậy nấu cơm, nấu đồ ăn,
cùng người cha ngồi trong căn nhà bếp. Hai ngưới nói chuyện râm rang,
chuyện trời mưa trời nắng. Con Mơ con nhà bà Đương lấy chồng về xóm Đồng
Rạ, sống không được thế nào ấy, mà bỏ về nhà khóc bù lu bà la. Thằng
Quê bỏ quê mà đi vào Sái Gòn lập nghiệp rồi, nó than, quê hương chó ỉa.
Thằng ba Đạt vào biệt kích đánh trận đâu trên Kỳ Sơn chết đem xác chở về
chôn ở xóm Gò. Con tám Hường con ông Thông cũng bỏ chồng về sống với bà
An, làm cái chòi ở xóm ông Đốc. Những chuyện trời mưa trời nắng đó, đã
đưa cha mẹ trở về tháng ngày tuổi thơ đầy trăng sao hoa mộng của những
mùa trăng thơ ấu cũ.
Rồi những ngày ông Tư đi lính đóng tuốt xa đâu ở vùng hai chiến thuật,
còn ông Năm cày lội lên thác xuống ghềnh ở vùng một, đầy bom mìn, lựu
đạn, AK.
Cũng may, hai ông đã thoát qua khỏi cơn chiến tranh đau đớn, xao xác đó.
Ông Tư đi tập trung ở Trảng Lớn. Rồi đi qua khắp cả những trại tập
trung hung hản nhất, thì ông Năm cũng vào lò cải tạo...Suốt trong gần
mấy năm xa cách, hai anh em không gặp nhau. Những đêm thâu trằn trọc
không ngủ được ở Trảng Lớn, ở Thành Ông Năm, ở Suối Máu, ở Long Giao, ở
Long Khánh, hai ông chỉ mong ra hiện trường sản xuất để thấy nhau, ngó
nhau chút thôi cũng được, nhưng vẫn không thấy, vì ở hiện trường lao
động sản xuất, số tù đông như kiến. Chỉ biết nhau do người nhà thăm nuôi
kể lại, thằng G đang cũng ở khu này, mi có gặp không? Đâu có gặp, trong
hàng rào kẻm gai mà làm sao gặp được. Chị Ba nói như hai người đang
sống ở ngoài đời vậy.
Ông Tư về trước ông Năm mấy năm, ông lại từ miền nam về trung, xuôi
theo chuyến tàu chợ, chở đầy súc vật, mắm, muối, gạo, rượu, của đám
người đi buôn hàng chuyến. Ông phải đi bộ thêm hai mươi cây số nữa mới
tới chỗ ông Năm. Nhìn dáng thằng em gầy trơ xương ông thương quá là
thương, nhưng rồi ông nhìn lại mình, cũng vậy chứ có khác chi mô, cũng
trơ xương như người trong nạn đói năm Ất dậu.
Hai anh em nghẹn ngào không nói được câu nào ra hồn, ông Tư, ừ thì
ngoài mình cũng bình an, nhờ ơn cách mạng anh có công ăn việc làm, ở
kinh tế mới anh vào rẫy cày sâu cuốc bẫm cũng đủ ăn...ông Năm, cảm ơn
cách mạng, em an tâm học tập tốt lao động tốt, mong sớm về với gia đình.
Thời gian trôi qua, đến sáu năm, ông Năm trở về. Ông đã lên cùng ông Tư
cũng chun vào rẫy bái ở khu kình tế mới...cũng cày sâu cuốc bẩm mà kiếm
không ra đủ hột gạo để nuôi thân...
Rồi
hai ông cũng lê thê lếch thếch kéo nhau về Sài Gòn, ông Năm chạy xích
lô, ông Tư đi bỏ hàng lặc vặt kiếm ăn qua ngày. Buổi chiều khi mọi
chuyện đã xong thì hai ông hẹn nhau xuống quán cơm bà cả đọi. Như vậy
cũng suốt bốn, năm năm...
*
Rồi cũng hai mươi năm sau, gió hải ngoại rít lên qua những tầng mây xám.
Ông Tư về vùng đất lạnh bên trời tây bắc. Ông Năm về vùng nắng ấm.
Những hai mươi năm sau hai ông mới gặp lại (dù hằng năm ông Tư cũng về
thăm thằng Năm mấy lần).
Tương phùng. Đúng là tương phùng.
Tóc hai ông già đều bạc. Nhưng xí xọn chút cho coi được, cho như còn
thời trai trẻ, cố lấy lại tuổi thanh xuân. Tóc hai người đều nhuộm.
Trông trẻ hơn, nhưng sức nặng của thời gian đã đè xuống, khiến hai ông
nhin đời bằng con mắt ngơ ngơ. Tóc ông Năm nhuộm đen tuyền còn ông Tư
màu nâu sẩm. Họ cố kiếm nhà ở gần nhau. Hai ông lại vẫn sáng, trưa,
chiều, tối, bên chung trà, bên chén rượu.
Một buổi sáng bà Tư gọi ông Tư, ông ơi, ông ơi. Tai ông Tư bây giờ điếc
đặc. Cái điếc của ông cũng mấy năm rồi, nhưng nó từ từ đến. Đến bây giờ
ai nói, phải kê sát miệng vào tai ông nói lớn. Người ngoài nghe tưởng
là có chuyện gì họ cự nự nhau.
Bà Tư nói với ông Năm, ổng điếc lắm, tui cũng mệt cho ổng. Nói chuyện
với ổng phải múa chân múa tay. Nói vậy nhưng bà thương ông, thường pha
cho ông bình trà ngon, nấu cho ông tô ốc miu loãng để ông ăn sáng. Ông
thích nhâm nhi ốc miu bên li trà và ngồi lướt net.
Ông
Năm là người sa đà những chuyện vớ vẩn trên đường tình. Qua bà thứ nhất
vì tù tội, nên ông trở về mỗi người mỗi ngã. Ông kết bà hai, cũng gãy
đổ. Rồi đến bà ba. Cũng bỏ đi, ông nghĩ đàn bà sao dữ như con chằn lửa.
Bà ba lại bỏ đi, săm soi đời ông từ ngày ông còn cởi trường, leo lên
lưng bò tắm suối.
Ông lại trở về nỗi cô đơn thui thủi một mình.
Ông Tư thấy đứa em lận đận như vậy quá thương. Dù biết rằng mỗi người
có một số trời định, nhưng thằng em của ông là một đời nghiệt ngã. Biết
ông Năm có số đào hoa, nhưng thật ra, ông không lang bang, bạ ai yêu đó.
Ông yêu ai, lấy ai, là yêu chết bỏ và trung thành chết bỏ. Ông không có
cuộc ngoại tình nào.
Nhưng dù có trung thành bao nhiêu đi nữa, thì (các) bà Năm cũng ghen
nhau. Bà Năm ba tìm đâu một tấm hình cũ của bà Năm hai chụp với người
chị, một thời xa lắc, liền tru tréo lên những lời phỉ báng độc địa rồi
khăn gói bỏ đi. Ông Năm có giải thích thế nào thì cũng là những lời vô
vọng. Ông đành im lặng nhìn trời hiu quạnh.
Đàn bà là con ma. Ông Năm thường tự nhủ mình vậy, nhưng thiếu vắng con
ma lòng ông tự dưng ông thấy nhớ. Trở về mái nhà xưa với các bà Năm:
một, hai, ba, không được, ông phải đi tìm một người khác thế thân.
Đó là cái số, ông Tư thương thằng em lao đao vì chuyện đàn bà. Nhưng biết làm sao? Thôi thì nó đi đâu cố đi theo nó.
Ông già bảy bảy đi theo lẽo đẽo bên ông già bảy ba. Cà phê ngồi quán
ông bảy ba phải nói thật to lên, chứ không thì ông bảy bảy cứ ngửa cổ
lên ngóng. Cái gì, mi nói gì tau không nghe rõ. Điếc mà, mi không biết
sao?
Cuộc nói chuyện có lúc sôi nổi như cải cọ chuyện gì.
Ông Năm nói nhỏ vào tai ông Tư. Tui phải kiếm một bà nữa anh Tư ơi. Một mình vò vỏ quá.
Ông Tư gục gặc cái đầu.
Ừm. ườm.
Ông Tư im lặng, ông muốn nói một điều gì đó cho ông Năm biết theo sách
giáo khoa thư, như nhân nghĩa lễ trí tín, hay với người đàn bà phải tam
tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh... Ông gục gặc cái đầu chưa kịp nói ra
thì ông Năm nói trước:
Thôi, nghĩ cũng mệt quá anh Tư à, em đã từng tuổi này mà phải bắt đầu
từ con số không thì mệt quá. Em xin nghỉ xả hơi cho khỏe. Mình một mình
ngủ nghỉ ung dung, không có ai quấy rầy thì tốt nhất. Thỉnh thoảng xuống
thăm con, bồng cháu, giỡn hớt với tụi nó cũng vui. Rồi chiều chiều qua
anh cùng anh chè chén...lai rai ba sợi, cũng đủ lãng quên đời, thế là
vui rồi, phải không anh Tư.
Ông Tư e hèm.
Ườm, ườm...
– Trần Yên Hòa
No comments:
Post a Comment