Sunday, June 26, 2022

Cha con ông Lê sau 75 - Tiểu Tử

Tiểu tử

Câu chuyện lột tả được một khía cạnh tàn độc, lừa đảo, cướp bóc, dã man của chế độ CS đối với người dân miền Nam ...có cái kêt thật bất ngờ và cảm động . Cam on Phuoc .

Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là "nhà ông Lê” .
Cách đây mấy năm, ông Lê – người Việt Nam độ 40 tuổi – từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con – vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi – ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng – tên Jean Marie – trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người…trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước .v.v…Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm.Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài… 

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie – người quản gia – rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ:
"Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy". 
Ông Lê giới thiệu:
"Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia".
Sau đó, ông nói:
"Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho". 
Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói:
"Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". 
Ông Jean Marie hỏi:
"Còn bà cụ đâu ? Sao không cùng ra đây với ông cụ ?".
Ông Lê trả lời như không trả lời:
"Mẹ tôi ở Paris".
Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con…

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa lông hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc…Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm… 
Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già… 

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước – cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản – ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của nhà nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.
Ông thường nói:
"Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vươn lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết ". 

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa:
"Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !". 
Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói :
"Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng ". 
Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt. 
Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975… 
Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói : 
- Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa ! 
Ông cười : 
- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại ! 
Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu – cũng gốc liên khu năm như ông – đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng lá "bùa" đó không linh ! Ông cũng có nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như…con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng , ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới…lộn ngược ! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi ! 
Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà…

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói:
"Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !".
Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu…Vậy mà bây giờ…bây giờ…Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết ! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa ! 
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông…bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.
Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng… 
Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình : 
- Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ? 
- Họ đâu có đòi. Họ lấy. 
- Lấy gì ? 
- Lấy hết tài sản của mình. 
Giọng bà bỗng cao lên một nấc : 
- Lấy hết tài sản ? 
Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc : 
- Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ? 
Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói : 
- Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ? 
- Bà chỉ kêu lên được một tiếng "Trời" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng… 
Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh : 
- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được. 
- Còn luật pháp để đâu ? 
- Luật pháp của ai ? 
Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói : 
- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ? 
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được…để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-lông rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng ! 
Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc : 
- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao. 
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì. 
- Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z…toàn là bạn thân của ông không. 
Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt : 
- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao ? 
Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù: 
- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ? 
Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết… 

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ…để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư…ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh : 
- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ? 
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa: ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng ! 

...Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ – có ba dãy nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân – và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng…v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rúc" trong nhà của bếp của bồi…Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng ! 
Thời gian đi qua…Một hôm bà bỗng nói với ông : 
- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển. 
Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng " thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông , ông chỉ là một thứ dây trầu...Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại" ! 

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó. 
…Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng :
"Cha mày !".
 Rồi tiếp :
"Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !"
Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng Tư 1975… 
Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng Tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ :
"Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". 
Rồi ông kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu :
"Cho tụi nó chết!" 
Bỗng người con hỏi: 
- "Còn mấy thằng tướng ngụy ?" 
Câu hỏi đó như một ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống! Tuy nhiên ông vẫn trả lời: 
- "Mấy người đó thì ba không biết". 
- "Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun! "
Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp. 

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu… 
Về đến nhà – ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu – ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói : 
- "Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa". 
Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê – giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt – không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư… 
Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh. 
Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng : 
-"Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà… "
Khi bước qua xa lông để uống cà phê, ông Lê hỏi : 
-"Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ? "
Ông Lê Tư chau mày, nhìn bà. Bà trả lời : 
-"Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi". 
Người con ngạc nhiên : 
-" Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !" 

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi… 
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh: 
-" Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?" 
-" Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày...làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !" 

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi… 
Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực" ! 
Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng. 
Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói : 
-" Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L . Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi." 
Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang : 
-"Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao." 
Ông nói "xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con… 
Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư ! 
Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời ! 

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằn trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này…Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở…

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây – đã gần hai tháng – ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi… 

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ... Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết ! 

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng. 
Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn… 
Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn: "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn…" 
Không biết, khi hay tin, vợ con ông có nhỏ cho ông một giọt nước mắt?
làm thinh
Truyện ngắn: Tiểu tử

Thursday, June 23, 2022

Chiếc Đòn Gánh

Những người phụ nữ quê tôi không ai không biết đến chiếc đòn gánh vì ai cũng đã từng hơn một lần gánh nó trên vai. Quê tôi miền Trung nghèo lắm. Từ những bé gái mới lớn lam lũ giúp mẹ thổi cơm gánh nước, đôi vai nhỏ như oằn xuống với một cánh tay bấu vào thân đòn nặng trĩu còn tay kia dùng lấy cân đối gánh hai thùng nước sóng sánh – đến những bà mẹ già nhanh lẹ gánh những bó rau, bụi cải hay con gà con vịt thong dong ra chợ bán. Rồi những đứa em, người chị, phần nhiều cứ rãnh việc, buông tay ra là động đến chiếc đòn gánh. Gánh lúa, gánh phân, gánh mạ non, gánh nước … Toàn bộ việc làm nặng nhọc đặt trên vai người phụ nữ. Đàn ông quê tôi lại ít thấy gánh gồng gì. Dĩ nhiên là họ làm những việc khác có khi còn nhọc nhằn hơn nhưng ít khi động đến chiếc đòn gánh …

Tôi nhớ như in lúc tôi còn là thằng bé sáu, bảy tuổi, chiều chiều ra đứng trên đầu cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Rướn người trên thành cầu sắt thật cao, tôi đưa mắt hướng về phía chợ. Hễ cứ thấy từ xa ai đó đang quang gánh bước tiến là lòng tôi lại thấp thỏm mừng vì nghĩ đó là mẹ mình. Cái dáng quay quồng, lam lũ của những người đàn bà quê tôi phần nhiều ai cũng giống nhau. Cho nên, tôi thường nhìn lầm. Tôi đợi từ xa và dõi mắt nhìn chằm chằm vào dáng đi khó khăn vất vả cũng với hai cánh tay, một nắm trên thân đòn và một lấy cân đối, buông lỏng theo từng bước chân như chạy. Không lẫn vào đâu được, đúng là bước chân của mẹ tôi. Bước chân mẹ lạ lắm, có gì đó như lo toan, vội vã, nhẫn nhục, nhọc nhằn trong mỗi nhịp đi quay quồng. Nhưng khi bóng người đàn bà kẽo kịt gánh gồng đến gần, thì lại không phải. Niềm vui biến mất, khuôn mặt buồn xo, tôi lại ngồi xuống thành cầu đợi mẹ tôi .

Cuối cùng thì mẹ cũng xuất hin! Từ xa, nhận ra mẹ, tôi đã ba chân bốn cẳng chạy ùa tới mừng rỡ. Tôi chẳng quan tâm gì đến mồ hôi mồ kê trên gương mặt mẹ chảy ròng ròng vì mệt, vì nắng rát mà điều quan trọng nhất là nhìn vào hai cái mẹt đong đưa hai bên đòn gánh dưới cái quang bằng dây thép uốn tròn. Quà của tôi nằm ở đó! Khi thì là chiếc bánh mì, vài viên kẹo dẻo, một lóng mía ghim, có khi là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền bằng nhựa … Thích nhất là được mẹ mua cho bánh bò ông ba tàu ngoài cổng chợ. Tôi mê bánh bò ông thì ít mà thích con gái ông thì nhiều! Chẳng là con ông học cùng lớp với tôi. Nó học giỏi nhì lớp, còn tôi hạng nhất. Bọn trẻ con thường cắp đôi tôi với con Lẻm, tên nó. Không biết nó nghĩ gì không chứ riêng tôi thì thích! Mà cũng lạ, không ai như tôi, mới học đến lớp hai, lớp ba mà đã biết mắc cỡ khi gặp nó … Nhưng đó là chuyện hồi con nít …
… Không cần đợi mẹ chấp thuận đồng ý, tôi đã lục mẹt lấy quà của mình vì biết mẹ chỉ mua cho tôi. Nhà có mấy chị em, ba mất sớm mà tôi là con trai duy nhất nên mẹ thương tôi hơn cả. Trăm lần như một, chiều nào mẹ đi chợ về, sau khi bán hết mớ rau cải, bầu bí trồng ở vườn nhà, thế nào mẹ cũng dành tiền ki cóp mua cho tôi ít quà. Tôi cầm gói bánh bò tung tăng chạy trước, mẹ gánh cặp mẹt đi sau. Không nhìn vào mắt mẹ nhưng biết chắc mẹ đang cười nhìn tôi niềm hạnh phúc. Đôi gánh nhẹ hẫng trên vai mẹ và nhiều lúc mẹ còn nói vói theo nhắc yêu tôi : Ranh con, chạy vừa vừa chứ, té ngã giờ đây !

Tôi thật không biết chiếc đòn gánh do ai nghĩ ra và Open tiên phong vào khi nào nhưng quả thật, đó là một dụng cụ tuyệt vời để vận động và di chuyển vật nặng từ nơi nầy đến nơi khác bằng sức người ở quê tôi. Nó được làm bằng cây tre già ngâm nước càng lâu càng tốt, để tre dẻo, chắc và khỏi mục. Tôi đã thơ thẩn hàng giờ nhìn người ta đục đẽo chiếc đòn gánh. Thật cũng lắm công phu ! Sau khi chỉ lấy đoạn gốc tre già ngâm nước chừng vài tháng, người ta làm hai chiếc máng ở hai thân đòn. Hai cái máng nầy phải giống nhau như một, giữa khắc một cái rãnh sâu dùng để móc quang vào cho khỏi lệch. Cái máng nầy cũng lắm chuyện. Gặp tay thợ đẽo giỏi, nó là hình tròn trụ, hình ô van có khi còn được tạc vào dấu thập hoặc chữ vạn mà tôi không biết để làm gì. Có lẽ lấy hên mua may bán đắt khi gánh trên vai chiếc đòn gánh ấy chăng, hay chỉ là khắc lên cho đẹp … Chưa hết, còn phải gọt đẽo thân đòn cho thật thẳng, đoạn ở giữa mỏng dính hơn hai bên đầu làm đòn đong đưa cho nhẹ sức hơn khi gánh nặng … Khoảng hơn tiếng đồng hồ đeo tay đẽo gọt thì chiếc đòn gánh sinh ra. Nó hoàn toàn có thể dùng hết đời nầy đến đời khác trong một mái ấm gia đình quê tôi vì hiếm khi bị gãy. Đến khi nước bóng ở thân đòn nổi lên màu đen mun thì không biết chiếc đòn đã thấm biết bao nhiêu mồ hôi từ trên đôi vai những người đàn bà tần tảo …

Nhưng chiếc đòn gánh của mẹ tôi không chỉ có thế. Nó còn là một trời kỳ diệu. Nó mang đến tuổi thơ tôi những niềm vui háo hức tràn ngập, cả những giấc mơ xinh xắn nhất trên đời. Còn gì sung sướng hơn khi được đặt ngồi vào một đầu quang, đầu bên kia là trái bầu trái bí mẹ gánh suốt dọc đường ra chợ. Tôi cứ ngồi im như thế trên suốt con đường làng, hấp háy đôi mắt hãnh diện nhìn quanh xem có đứa bạn học nào để mà vểnh mặt lên, tự hào được ngồi gánh mẹ. Tôi cũng không buồn khi thấy chỉ mấy con trâu, con bò dọc đường làng chào tôi kêu nghé ọ và những đứa trẻ chăn trâu nhìn theo cười chế giễu. Tôi biết chúng nó ganh tỵ vì không được ngồi gánh như tôi … Và vì tôi nặng hơn mấy trái bầu bí ở gánh bên kia nên mẹ phải đưa vai chệch về phía tôi để giữ cân đối. Mệt lắm nhưng mẹ vui. Tôi biết được điều ấy trên đôi mắt lộng lẫy, hài lòng bừng lên trên mặt mẹ …

Đến gần chợ là tôi dứt khoát bảo mẹ cho xuống, có năn nỉ mấy cũng không chịu ngồi thêm. Tôi sợ con Lẻm, con ông ba tàu bán bánh bò đầu cổng chợ nhìn thấy. Vì sao sợ nó cười, tôi không biết nhưng rõ là tôi thích được nhìn nó Open với hai chiếc nơ xinh xắn, chạy lò cò trước cổng, mắt tròn xoe nhìn tôi và gật đầu chào. Tôi làm như ngó lơ, chạy lúp xúp theo mẹ, mắt liếc thật nhanh vào con Lẻm còn tay thì cứ cầm dây quang phía sau chiếc đòn gánh mà nhắc để khỏi mắc cỡ : Đi nhanh lên mẹ, con đói bụng lắm rồi …

Tuổi thơ tôi và chiếc đòn gánh mẹ như không hề rời nhau. Cũng có những hôm không bán được hàng, mẹ quảy gánh về mà không có quà cho tôi. Tôi cứ cầm lấy đòn gánh mẹ mà khóc tấm tức, dỗ mấy cũng không nín. Tôi nghĩ mẹ không thương tôi hoặc là quà của tôi mẹ đã cho ai mất rồi. Tôi chẳng nhìn lên mắt mẹ để thấy mẹ buồn như thế nào vì không tiền mua quà cho đứa con cưng. Có hôm mẹ tủi thân cứ nhìn tôi, ôm tôi mà khóc …

Nhưng cũng có lúc, chiếc đòn gánh với tôi là cả một cơn ác mộng ! Tôi nhớ có lần đi hái trộm xoài non của bác Hai Trầu cạnh nhà. Bác Hai qua mét mẹ và chuyện đã xảy ra … Tôi mới bước chân về đến cửa, mẹ tìm hoài không thấy roi nên sẵn cây đòn gánh, mẹ phát vào mông tôi mấy cái. Dĩ nhiên là mẹ phát nhẹ thôi vì chiếc đòn gánh thì to bảng mà mông tôi thì nhỏ. Nhưng mà đau thấu trời xanh. Ghê thật là cái vị đòn làm bằng cây tre già ngâm nước ! Nó thấm vào thấu bên trong, đau và nhức buốt hơn mọi loại roi nào khác. Tôi chỉ còn cách quỳ xuống đất nức nở mà xin lỗi mẹ vì đau và sợ ăn đòn tiếp. ..

Tối đó, mẹ vừa khóc vừa bôi dầu nhị thiên đường vào mông tôi đã nổi lên mấy vết hằn đỏ. Mẹ dằn vặt mình vì đã giận đánh con. Tôi làm bộ quay mặt vào tường không nhìn mẹ. Tôi giận, mẹ hỏi gì cũng không nói và thiếp đi khi nào không hay. Khi thức dậy vẫn còn thấy mẹ ngồi chằm chằm nhìn tôi, nghẹn ngào : Mẹ đánh con bậy quá … Nhưng ai bảo con hư … Lúc ấy, với đôi mắt nhạt nhoè, tôi chỉ muốn ôm mẹ mà khóc. Vì hờn, tủi thân hay còn giận mẹ, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc một điều là mẹ yêu thương tôi vô bờ bến !

Chiếc đòn gánh của mẹ, với tôi còn là những kỷ niệm không thể nào quên ! Khi tôi đã lớn, nhà nghèo, mẹ hàng ngày trĩu nặng nó trên vai – khi thì gánh phân, gánh gạo đi bán – khi thì gánh nưc, gánh hàng tảo tần nuôi tôi ăn học. Những năm tháng còn là sinh viên, mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi lại ra cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Nhưng mẹ giờ đã yếu lắm ! Mẹ không còn gánh nặng được nhưng phải cố, vì tôi. Hình hài mẹ nhỏ quắt lại, đôi vai như muốn run lên theo bước chân, môi mắm chặt mỗi lần mẹ cố sức. Duy đôi mắt mẹ thì không hề đổi khác ! Đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc và tự hào nhìn đứa con trai phổng phao, chững chạc sắp trưởng thành. Tôi đứng lặng trên cầu, rơm rớm nhìn vào thân thể và đôi vai gầy guộc của mẹ oằn xuống dưới mỗi bước đi … Tôi muốn lao vào ôm mẹ mình nhưng đã không làm như vậy. Cho mãi đến tận giờ đây, tôi vẫn ân hận trách mình vì điều ấy …

Ngày ấy, mẹ vẫn thường nói vui: Chính nhờ chiếc đòn gánh của mẹ nuôi con ăn học đấy! Mẹ mong khi mẹ không còn đụng đến nó nữa thì con đã trưởng thành …Còn giờ thì vì con – mẹ đâu, nó đó …
… Bây giờ tôi đã thành đạt. Sự nghiệp, công danh sự nghiệp đến muộn nhưng sau cuối cũng đến. Mẹ mừng hơn ai hết. Con Lẻm con ông ba tàu bán bánh bò ngoài cổng chợ giờ là vợ sắp cưới của tôi. Ngày tôi lấy vợ, từ dưới quê mẹ lên thăm. Xuống bến xe đón mẹ, tôi thật ngỡ ngàng khi mẹ cứ hi hoáy tìm một vật gì để dưới gầm xe. Tìm mãi, sau cùng mẹ mới lôi được ra cây đòn gánh ! Thì ra thói quen, mẹ mua cau trầu mừng đám cưới tôi và cứ nghĩ sẽ đến nhà tôi với đòn gánh trên vai và cặp quang sắt rỉ ! Tôi buồn cười và hơi tức bực về sự lẩm cẩm của mẹ. Ai đời lên đến thành phố rồi mà còn đem theo nào quang nào gánh, dáng đi cứ quay quồng, lo âu như ngày nào. Ngoài việc mướn xe chở cau trầu, tôi còn phải kêu thêm một chiếc xích lô chở riêng cặp quang và chiếc đòn gánh theo về vì không biết để đâu. Bảy mươi tuổi, có khi mẹ lẩn thẩn rồi cũng nên. Tôi nhủ thầm như vậy …

Mừng đám cưới tôi có mấy ngày, mẹ đòi về nằng nặc. Nhà không ai trông nom, vườn tược, gà heo không ai chăm nom, mẹ bảo thế ! Hầu như đêm nào ở nhà tôi mẹ cũng thức trắng, trằn trọc không ngủ. Mẹ lo những việc không đâu, nào ai biết được. Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi dậy, húng hắng ho. Tôi làm thế nào dỗ giấc ngủ, lo ngại đòi mẹ uống thuốc nhưng mẹ bảo không sao. Me lo chuyện rau mọc nhiều không ai cắt bán, lo gà vịt không ai cho ăn, lo nước trong lu không ai gồng gánh … Đúng mẹ lẩm cẩm thật rồi !

Tôi và con Lẻm mời mẹ ở lại luôn trên thành phố với vợ chồng tôi nhưng mẹ nhất định không chịu. Mẹ ở không quen chốn đông đúc, ồn ào hơn nữa còn phải chăm mộ bà nội, ba con dưới quê, ở lâu làm thế nào được, mẹ nói cái lý của mẹ. Cái lý của các bà mẹ thì khi nào cũng thuyết phục được bất kể ai trên đời chứ chẳng phải riêng tôi …

Ngày mẹ ra bến xe về quê ngoài quà mừng của vợ chồng tôi gửi bà con lối xóm vẫn là chiếc đòn gánh đã lên nước theo cùng. Nhìn dáng mẹ quay quồng, quay quồng, lòng tôi trào dâng niềm thương vô bờ bến nhưng biết làm thế nào giữ mẹ. Đến lúc nầy, mẹ mới móm mém cười, chắc là muốn chúng tôi đừng buồn khi chia tay :
– Đó, con thấy không ? Nhờ đem theo đòn gánh mà khi về, mẹ mới mang hết mấy thứ quà con gửi cho lối xóm … Không có nó, mình mẹ bê sao nổi !
Tôi nhận ra mẹ mình có lý. Một đời mẹ tảo tần đắm đuối vì con với chiếc đòn gánh cùng theo mẹ đi suốt bao năm trời gian nan mãi cho đến khi con đã trưởng thành vẫn còn mãi lo âu …

Rồi mẹ tôi qua đời ! Tuổi già và những căn bệnh triền miên không cho mẹ ở lại cùng tôi mãi. Cuộc chia tay đớn đau sau cuối rồi cũng đến ! Trong nỗi đau mất mẹ, tôi chỉ còn biết lặng người, xót tím tâm can.
Lúc nhập quan, khi người ta đưa hình hài nhỏ bé, khô quắt của mẹ vào quan tài, ngoài những bộ đồ cũ nát mẹ vẫn thường mặc khi còn sống cùng những đồ vật thường dùng, tôi chợt nhớ đến chiếc đòn gánh đã đi theo suốt đời cùng mẹ. Nó vẫn nằm đó, trong góc nhà kia, vẫn ánh lên thứ nước màu đen tuyền với cái thân đòn hình như cong lên vì khó khăn vất vả. Chợt nghĩ về những ngày ấu thơ gian nan, chợt nghĩ về tình yêu bát ngát, thắm thiết của mẹ, tôi trào dâng nước mắt …

Tôi nhớ đến lời mẹ tôi khi còn sống – mẹ đâu thì nó đó – chiếc đòn gánh ấy! Và cố thuyết phục mọi người xin đưa cây đòn theo cùng mẹ sang thế giới bên kia … Ai cũng cản tôi nhưng cuối cùng thì họ xiêu lòng. Vậy là trong quan tài mẹ tôi lại có thêm chiếc đòn gánh đã từng một thời bôn ba cùng mẹ.

Khi mọi người ra về sau lễ tang, còn một mình ngồi bên mộ mẹ, tôi đã khóc như chưa khi nào được khóc như thế. Rồi cũng sẽ qua hết mọi khổ đau, niềm hạnh phúc, mọi cao sang, quyền quý và cao sang kể cả những vụn vặt thấp hèn trên đời nầy nhưng tôi biết, hình ảnh mẹ tôi và chiếc đòn gánh nhọc nhằn thời xưa sẽ theo mãi tôi đến suốt quãng đời còn lại …

Nguyễn Minh Phúc

Sunday, June 19, 2022

Người Lính Già - NKT Lê San

 3
Người lính già xa quê hương
nghe trong tim đêm ngày trăn trở
nhớ quá một thời chinh chiến gian lao

Nhớ phút hiên ngang đi vào binh lửa
Sắt thép trong tay đang đối diện thù
Bỗng tiếng loa vang lệnh truyền buông thả
Nửa đời còn gì cung kiếm ngang trời

Người lính già xa quê hương
Bao nhiêu đêm anh nằm không ngủ
Nhớ quá Mẹ hiền, nhớ quá anh em
Nhớ những đêm mưa quân hành đất đỏ
Nhớ những đêm xuân nơi chốn địa đầu
Nay quá xa xăm đường về thăm thẳm
Nửa đời ngậm ngùi mang kiếp tha phương

ĐK:
Ôi! còn đâu, còn đâu
Bạn bè ta những anh hùng hào kiệt
Không tiếc chi xương máu giữ màu cờ

Ôi! còn đâu, còn đâu
Một thời trai một thời súng gươm
Nay bỗng dưng thành kẻ lưu vong

Người lính già xa quê hương
Nhưng trong tim chưa tàn ánh lửa
Vẫn ước một ngày theo bước Quang Trung
Vẫn thấy quê hương đêm ngày réo gọi
Vẫn thấy trong tim canh cánh đường về
Vẫn thấy nơi đây chỉ là đất tạm
Thầm hẹn ngày về chết giữa quê hương

Saturday, June 18, 2022

Nó - Lê Phi Ô

Chuyện thật kể về một người Lính VNCH trước và sau 30 tháng 04 năm 1975.

 
Tôi biết Nó từ khi hai đứa còn cắp sách đến trường ở bậc Tiểu Học, rồi cả hai chúng tôi cùng vào năm Đệ Thất trường Trung Học công lập Phan-Bội-Châu, Phan-Thiết.

Quê Nó tận ngoài xứ Huế xa xôi, Mẹ nó... một Cụ bà khoảng tuổi 50, sở dĩ tôi gọi là Cụ bà vì với tuổi tác của một đứa trẻ hơn 10 tuổi như tôi lúc đó, thì người lớn cỡ tuổi 50 đối với chúng tôi phải gọi là Bà. Bà cụ dáng vóc nhỏ nhắn, khi ra đường lúc nào cũng mặc chiếc áo dài, đôi khi người ta thấy Bà đeo một chiếc vòng nơi cổ theo như cách phục sức của hầu hết đàn bà xứ Huế. Bà có tài về gia chánh, Bà nấu những món ăn xứ Huế ngon tuyệt, nghe nói Ông Ngoại nó khi xưa làm Quan ở Triều Đình nên con cháu, nhất là con gái phải đi học về nữ công gia chánh. Ba nó lớn hơn Mẹ nó một con giáp, Ông cụ là một nhà Nho và là bạn rất thân với Cụ Tản-Đà Nguyễn-khắc-Hiếu. Trước 1945, Ông Hồ-chí-Minh mời Ba nó làm cố vấn cho Việt Minh ở Liên-khu 5 (Quảng-Nam, Quảng Ngãi, Bình-Định và Phú-Yên), Ông cụ không thích cộng-sản nên từ chối khéo. Khuyến dụ không được, bọn chúng bắt cóc Ông đưa vào vùng “kháng chiến”. Mãi cho đến khi Ông lâm trọng bệnh bọn chúng mới cho Ông về Đà-Nẳng để chữa trị... và Ông đã tìm cách trốn vào Sài-Gòn, Ông sống với nghề viết Báo và dạy kèm chữ Nho (môn Cổ Ngữ) cho những người chuẩn bị thi Cử Nhân. Thời Pháp thuộc, ở Sài-Gòn có một tờ Nhật Báo “Thần Chung”, tên nầy do Ông đặt ra.

Khi Ba nó trốn đi, bọn Việt Minh cộng-sản bắt mẹ con Nó làm con tin và giữ hai mẹ con trong vùng rừng núi Quảng-Nam, dân địa phương gọi nơi đó là trên “Nguồn”. Lúc đó Nó chỉ mới 5 tuổi, Chi bộ Việt Minh ở đó, gom tất cả trẻ em từ 5 đến 12 tuổi, dạy cho bọn trẻ cách canh gác và báo động khi thấy lính Lê-Dương đi ruồng bố. Một hôm, vì ham chơi, bọn Lê Dương đến rất gần... Nó vừa kịp đưa nón lá lên quạt (ám hiệu báo động có lính Pháp) thì nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Thằng nhỏ cùng tuổi với Nó trúng đạn chết ngay tại chỗ, riêng Nó bị té xuống mương nước nhưng ráng chịu đau... đứng dậy chạy dưới lằn đạn. Bọn lính Lê Dương mang đồ nặng và giày Đinh chạy dưới ruộng nước chậm chạp nên không bắt kịp Nó. Tai nghe văng vẳng tiếng Mẹ nó gào khóc từ xa: “Chạy con ơi!...chạy!”. Cả xóm độ vài ba chục người gồm người già, đàn bà và trẻ con chạy trối chết vào sâu trong núi trốn, mấy ngày sau mới dám mò về làng vì đói. Còn Việt Minh CS thì không thấy thằng nào cả, bọn nó bỏ cả dân chúng chạy trước để thoát nạn.

Vì rừng thiêng nước độc, đau yếu không có thuốc men, hai mẹ con bị sốt rét rừng đầu rụng hết tóc, da vàng như nghệ và coi bộ không sống nổi. Bọn Việt Minh CS mới cho mẹ con Nó về Nam-Ô (Quảng-Nam) để chữa trị, trên đường về phải luồn lách qua nhiều cánh rừng. Khi ngang qua một trảng trống có vài miếng ruộng nhỏ... máy bay Pháp thấy nên sà xuống bắn. Mẹ nó trốn trong bụi Dứa, còn Nó nằm nép sát bờ ruộng giả chết (theo lời dặn trước của Việt Minh). Khi máy bay đi xa, cả hai mẹ con chạy trối chết đến chiều mới ra được bờ sông, từ đây phải chờ ghe của mấy người đi vớt củi trên sông để đi nhờ về chợ Nam-Ô khoảng gần mười cây số.

Lợi dụng cơ hội hiếm có, cả hai mẹ con trốn thoát bằng đường biển vào Phan-Thiết sống nhờ bà con. Thời gian ở Phan-Thiết, mẹ con Nó nhiều lần vào Sài-Gòn tìm Cha. Ông giờ đây già yếu, Nó sống với Cha không bao lâu thì Ông chết. Dạo đó, báo chí Sài-Gòn trên tờ Phân-ưu có viết: “Cụ Lê Cương Ph. nhà Nho cuối cùng của làng báo Việt-Nam không còn nữa!”, trong lúc hấp hối, Ông cụ có viết để lại hai câu đối: “Bể trầm luân theo chúng lội ra khơi, sáu mươi năm nào giận...nào cười...nào khóc...nào thương. lăn lóc vở tuồng trên vũ trụ - Cuộc phiền não khiến mình qua đủ cửa, ba thước đất hết dại... hết khôn... hết ngu... hết trí, rõ ràng hạt bụi giữa tang thương!”.

Số phận Nó long đong, ở Phan-Thiết cũng không bao lâu. Người bà con là một viên chức Chính-Phủ bị Việt Minh CS sát hại, người khác bị thương nặng trong một cuộc phục kích. Gia đình ly tán từ đó, mẹ con Nó dìu dắt nhau vào Sài-Gòn sống nhờ một gia đình bà con khác. Ông nầy là dân nhà Binh nên nay chỗ nầy mai chỗ khác. Nó đã từng theo Ông sống ở Thủ-Đức (trong trường Bộ Binh), rồi Vũng-Tàu, Cà-Mau, Cần-Thơ, Mỹ-Tho, Gia-Định rồi Thủ-Đức..v..v.., do đó việc học nhiều lần cũng gián đoạn. Khi hai đứa chúng tôi còn học chung ở bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp, vào những dịp trại hè hoặc liên hoan ở trường, Nó thường lẻn trốn ra ngồi một mình nơi chỗ vắng. Tôi hiểu bạn tôi, tâm trạng của kẻ nghèo, mồ côi Cha... nhất là khi nhìn những người khác, cha mẹ đủ đầy, đi có người đưa... về có người đón. Trước khi Mẹ con Nó trốn thoát vào miền Nam, tài sản... tiền bạc bị bọn Việt Minh CS cướp sạch bằng chiêu bài “Ủng hộ kháng chiến”. Khi vào được trong Nam, tuy sống với bà nhưng Mẹ nó cũng phải làm việc để có tiền nuôi Nó ăn học, lúc nào Nó cũng chỉ đi, về một mình...!

Năm 1962, hai đứa gặp nhau ở Sài-Gòn, Nó cho biết là đã nộp đơn tình nguyện vào Khóa 15 Liên Trường Võ-Khoa Thủ-Đức. Mẹ nó già yếu lại mang bệnh suyễn, chút ít nữ trang dành dụm khi trốn thoát Việt Minh CS vào Phan-Thiết, tuy sống tiết kiệm tối đa nhưng nay cũng đã cạn kiệt... hơn nữa, ở Tỉnh nhỏ lúc đó chỉ có trường dạy đến lớp Đệ Tứ, muốn học Đệ Nhị cấp phải vào Sài-Gòn. Vừa hoàn tất bậc Trung Học ở Sài-Gòn thì mẹ Nó cũng không còn đủ sức để nuôi Nó ăn học. Trước đó 2 năm, Nó đã xin gia nhập vào “Biệt-Kích Nhảy Bắc”: Sở Bắc hay SB (Special Branch). Vì nghe đồn, đơn vị nầy trước khi đi vào lòng Địch (ở miền Bắc) sẽ được nhận trước 12 tháng lương tiền Tử-Tuất. Nó nghĩ, đi lính trước sau gì cũng chết... nhưng it ra, trước khi chết Nó đã có 12 tháng lương tiền Tử để lại cho Mẹ nó sống khi không còn có Nó! Nhưng là người Nam, muốn được chọn thì phải là người miền Bắc và nói giọng Bắc, nên Nó không được tuyển dụng.

Khi còn học ở Vũng-Tàu 1959, Nó quen một cô bạn cùng trường tên Ph.... khá xinh. Nhưng không lâu sau đó, ông Chú nhà binh của Nó đổi đi tận Cà-Mau, Nó phải đi theo. Cuộc đời của Nó là cả một chuỗi dài bất hạnh nối tiếp nhau, đôi khi muốn viết thư cho cô bạn nhưng sợ gia đình cô ấy biết được sẽ phiền phức cho cô ấy, nên Nó đành câm nín!

Đầu năm 1963, lúc còn đang học trong Quân trường Thủ-Đức, Nó viết thư cho Ph., và chờ đợi với niềm hy vọng mong manh... thời gian xa cách quá lâu, không biết Ph. còn ở Vũng-Tàu hay không, có còn nhớ đến người bạn mà, đã có lần hai đứa đã nép sát vào nhau dưới mái hiên dài vắng lặng trong một đêm mưa nặng hạt, với tiếng sóng biển rì rào và tiếng gió rít rợn người vọng về từ đỉnh núi... khiến Ph. sợ hãi nép sát vào người Nó hơn. Rồi cả hai thẹn thùng... khi nhận ra rằng vòng tay hai người đan nhau không biết tự bao giờ!!!

Hơn một tháng sau, trước giờ ra bãi học chiến-thuật Nó nhận được thư hồi âm của Ph., “May quá Ph. vẫn còn ở chỗ cũ!” thảng thốt gọi tên Ph. và với thái độ không được bình tĩnh, Nó mở thư ra xem... bỗng người Nó chao nghiêng, lá thư rơi xuống đất. Anh bạn đứng kế bên cúi xuống lượm lên trao cho Nó và, đột nhiên anh ta nói lớn với viên Sĩ-quan cán bộ: “Thưa Chuẩn-Úy, Anh P.O trúng gió!”. Tai Nó ù lên, nhiều tiếng nói lao xao...rồi tiếng xe Hồng Thập Tự thắng gấp, Nó được hai anh Quân Y đưa về bệnh xá.

Lá thư trong tay Nó là một thiệp cưới báo tin ngày Ph. lấy chồng!!! cuối thiệp cưới Ph. viết: “Ph. lấy chồng, P.O có buồn lắm không?!”. Từ đó, cho dù những buổi học Chiến-thuật hoặc Địa hình ngoài bãi tập mệt đến nhoài người... Nó vẫn cứ đều đặn mỗi tối xuống Câu-lạc-bộ “Diệm-Song”, gọi ly café đen với một gói thuốc lá, ngồi hút liên tục. Trước khi trở về doanh trại, Nó thường yêu cầu cô Cashier cho Nó nghe bản nhạc “Tà Áo Cưới” của Hoàng-thi-Thơ và Nó khe khẽ hát theo: “Bâng khuâng trong gió bay tà áo, gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng! - Tôi đi, đi mãi theo màu nắng, nắng để lòng tôi với quạnh hiu!”

Sau ngày mãn khóa, Nó theo học khóa căn bản Tình Báo ở trường “Cây Mai” Sài-Gòn, và xin về phục vụ tại Phòng 2 Tiểu-khu Phước-Tuy. Lúc đó Vũng-Tàu chưa tách rời thành Thị Xã mà là một Quận của Tỉnh Phước-Tuy. Mỗi cuối tuần Nó thường thơ thẩn ở bãi trước đường ra bãi Dứa gần Dinh Thượng. Nơi đây bãi cát trắng phau xen kẽ những ghềnh đá mà mỗi cơn sóng vỗ làm tung những bọt nước trắng xóa. Nó, vẫn chỉ một mình ngồi cho đến khuya trong không gian tĩnh lặng, nghe sóng nước rì rào, nghe tiếng Thùy-Dương vi vu vọng về từ bãi trước... những vết chân tình in trên cát thuở nào nay đã mất dấu, cảnh cũ vẫn còn nhưng người xưa mãi mãi biền biệt phương nào!!!

Chiến cuộc lan tràn... trận đánh lớn nhất xảy ra tại Làng Bình-Giã, Quận Đức-Thạnh đã gây một số tổn thất cho quân của Chánh Phủ VNCH, trong đó Tiểu-đoàn 4 TQLC là thiệt hại nhiều nhất.

Phòng 3 Tiểu-khu Phước-Tuy quyết định thành lập những toán Thám-sát lấy tên là Quyết Tử, lính được tuyển chọn là những quân nhân gan dạ và tình nguyện từ các Đại-đội biệt lập hoặc thành phần cựu binh từ các Quân, Binh Chủng bị báo cáo đào ngũ với nhiều lý do khác nhau như Dù, TQLC, BĐQ..., Nó được chọn để chỉ huy đơn vị Thám-sát “Quyết Tử” nầy, ban đầu quân số chỉ ở cấp Trung-đội sau lên đến Đại-đội (-) khoảng trên 60 người.

Đang phục vụ trong nghành Quân Báo tương đối it nguy hiểm, nhưng không hiểu sao Nó làm đơn xin ra khỏi ngành và tình nguyện phục vụ bất cứ đơn vị tác chiến nào với lý do đơn giản: “Thích đánh giặc”! Trong thời gian còn làm việc ở ngành Quân Báo, Nó chỉ huy chỉ một Trung-đội, đôi khi một Tiểu-đội Tình Báo, đột kích vào sào huyệt việt cộng như Mật khu Minh-Đạm, Dinh Cố, Long-Mỹ, Núi Đất... nhất là vùng Long-Tân thuộc Quận Long-Lễ Tỉnh Phước-Tuy, nơi mà quân đội Úc hãnh-diện có một trận đánh để đời. Chỉ với một Tiểu-đội 10 người Nó đã gây hoảng loạn và tổn thất đáng kể cho các đơn vị địa phương việt cộng trong vùng mà bọn VC gọi là “Vùng giải phóng”, vì thế Nó được chọn chỉ huy đơn vị Thám-sát Quyết Tử.

Tình hình chiến sự trở nên tồi tệ sau ngày đảo chánh 01 tháng 11 năm 1963, những cuộc chỉnh lý tiếp theo của cấp Tướng Lãnh ở trung ương khiến tình hình ở địa phương càng thêm bi đát. Ấp chiến lược bị dẹp bỏ, lính tráng tự động rã ngũ hoặc đào ngũ, mỗi Đại đội quân số lúc đó không tới 40 người. Bọn cộng-sản lợi dụng tình hình rối ren của miền Nam mở rộng hoạt động phá hoại từ “Chiến tranh Du Kích” chuyển sang “Trận Địa Chiến”, điển hình là trận đánh Bình-Giã tháng 12 năm 1964. Mẹ nó, đêm đêm hướng mắt về vùng có Hỏa Châu soi sáng hoặc có tiếng Đại-Bác vọng về, Bà cầu nguyện cho đứa con duy nhất của mình được an lành trên đường dài chiến chinh. Trong một trận đánh lớn tại Xuyên-Mộc tháng 03 năm 1965, Nó bị thương nhưng không nặng. Sau khi xuất viện, Mẹ nó thường ước ao mong sao Nó lấy vợ sớm để Bà có cháu nội. Trong thâm tâm Bà, súng đạn vô tình, lỡ có mệnh hệ nào xảy ra cho Nó... Bà sẽ sống với ai! - Thương Mẹ, Nó lấy vợ và tháng 07 năm 1966... Bà đã có cháu nội để ẵm.

Cũng cùng thời gian đó, với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, với một lý tưởng Quốc-gia trong sáng và với bộ quân phục mặc trên người mà Nó luôn luôn hãnh diện. Thì cũng có, một vài cấp chỉ huy phe phái, chèn ép... Nó đã đụng độ với một sĩ-quan đồng cấp “người nhà” của “Xếp” lớn. Và, Nó bị thuyên chuyển đi nơi khác... nơi mà, rừng núi bạt ngàn, nơi mà việt cộng nhiều hơn lính, nơi mà có hai Quận (Chi-khu) hắc ám nhất: Tánh-Linh và Hoài-Đức (Võ-Xu, Võ-Đắt).

Cuộc chiến Việt-Nam chấm dứt ngày 30 tháng 04 năm 1975. Ngày bi thảm của lịch sử! Theo cùng vận nước nổi trôi... Nó cùng nhiều trăm ngàn Quân, Dân, Cán, Chính VNCH khác mà con số lên đến hàng triệu người... trở thành người tù của chế độ mới, chế độ cộng-sản man rợ trên tất cả sự man rợ. Bọn việt cộng muốn trả thù người Lính miền Nam qua mỹ từ “Trại cải tạo”.

Năm 1978 Tù “cải tạo” được giao cho công an cộng-sản giam giữ. Giáng Sinh năm đó, tại trại tù Suối Máu, Biên-Hòa. Anh em tù nổi dậy, phá rào ngăn cách các trại giam, ca nhạc Giáng-Sinh và nhạc Chính-Huấn VNCH suốt đêm. Nó tham gia tổ chức trừng phạt Ăng-ten, dạy bài học đích đáng cho những tên phản bội anh em, hoặc những người có thân nhân là việt cộng muốn lập công “để được cho về sớm”?!.

Vài tuần sau, bọn công an bắt đầu trả thù, Nó cùng 3 người khác, mỗi người bị nhốt riêng trong một thùng sắt Container, trên người chỉ duy nhất một chiếc quần xà-lỏn, ban ngày nóng như thiêu đốt, ban đêm lạnh cắt da của thời tiết mùa Đông. Cứ hai ngày thì bị công an dẫn đi thẩm vấn một lần, thỉnh thoảng bị đánh đập... Công an tha hồ chửi mắng, thoi, đạp bằng tay, chưn và cả báng súng, riêng Nó bị đánh nặng. Anh Trương quang Q. là bạn cùng khóa với Nó, hàng ngày mang cơm nước đến Container cho Nó, và ngày nào cũng mang cơm thiu về vì Nó bị công an đánh ói máu không ăn uống gì được. Anh Q. phải nấu cháo và hòa tan mấy viên thuốc trụ sinh vào trong cháo khuyên Nó ráng ăn để sống. Vài tuần sau, một người trong nhóm có tên là Long Ca-rô, vì anh chỉ có độc nhất một chiếc áo ca-rô mặc trên người, bị đánh bằng báng súng vỡ sọ chết. Từ đó những người còn lại không bị công an đánh nữa.

Chừng vài tháng sau ngày tù nhân Suối Máu nổi dậy, bọn công an thanh lọc những người tù có thành tích chống đối nhiều nhất, trong đó có Nó, giải giao về khám Chí-Hòa Sài-Gòn. Nơi đây, người tự xưng là cán bộ “chấp pháp” có tên là Trạc, lần lượt thẩm vấn từng người. Tù nhân bị dẫn đến phòng hỏi cung ban đêm, đầu bị trùm kín mít chỉ chừa 2 con mắt. Sau nhiều tháng nằm khu xà lim, tù được chuyển ra khu tập thể. Vào một đêm nhà tù Chí-Hòa đang chìm trong giấc ngủ, đám tù nhân nổi dậy ở Suối Máu bị đưa ra xe bít bùng, mỗi người được cấp phát một ổ bánh mì nhỏ với 2 cục đường tán, không có nước uống. Khi đọc đến tên Nó, thằng công an hằn học: “Anh làm tới Tiểu-đoàn Trưởng, chắc là phải giết nhiều người lắm!”, nhưng cũng nhờ đứng gần Nó đọc được nơi trang giấy trên tay thằng công an: “Họ, tên 163 can phạm trại Tân-Hiệp (Suối Máu)”, đây chỉ là danh sách đợt đi có mặt Nó. Trên đường đi, mỗi khi xe dừng lại để bọn áp tải tù nhân nghỉ ngơi ăn uống, đồng bào nghèo buôn thúng bán bưng biết được xe chở tù “Cải tạo” là họ kêu ầm lên: “Bà con ơi! xe chở mấy anh tù cải tạo, bà con ơi...!”, thế là, đủ loại bánh kẹo, trái cây, bánh tét, bánh ú, đồng bào liệng tới tấp lên xe, kèm theo lời nói làm anh em tù xúc động vì biết được rằng đồng bào vẫn còn thương những người lính miền Nam sa cơ: “Ăn đi mấy anh, ăn đi các con...!”, cảm động nhất là các em bé tuổi từ 10 đến 12, trong cái Nia hoặc Rổ nhỏ vỏn vẹn vài chục trái chuối nấu hoặc mía ghim, cả một “gia tài” nuôi sống gia đình trong ngày, các em hất hết lên xe biếu các chú tù!

Xe chạy đến chiều ngày hôm sau thì tới Xuân-Phước thuộc Huyện Đồng-Xuân, Phú-Khánh (tên gọi mới của việt cộng), tù phải lội bộ vài cây số mới đến trại mang bí số A20, còn có tên gọi khác là Trại Trừng-giới hoặc Trại Kiên giam... nơi kiên trì giam giữ những tù nhân “không cải tạo được” từ các trại giam khác (muốn biết trại giam nầy khắc nghiệt và tàn độc đến mức độ nào, xin tìm đọc cuốn sách: “Trại Kiên Giam” của nhà văn Nguyễn-chí-Thiệp cũng là người tù của trại A20).

Nó bị bộ đội cộng-sản bắt lúc 09:00 giờ sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975 tại chợ mới Vũng-Tàu, trước khi Ông DVM tuyên bố đầu hàng. Bị đưa về giam tại hậu cứ Trung-đoàn 43/SĐ18BB tại Long-Khánh. Khi các người khác trình diện “Học tập cải tạo” (theo cách nói của VC) thì Nó bị nhập chung vào và bị giam giữ ở trại Hố-Nai. Giữa năm 1976 Nó bị chuyển về Suối Máu rồi Chí-Hòa. Từ 30 tháng 04 năm 1975 đến giữa năm 1979 (4 năm), Vợ Nó thăm hoặc gởi quà tất cả 6 lần.

Đầu năm 1976, khi còn bị giam tại Hố-Nai, Vợ nó báo tin Mẹ nó chết. Đau đớn đến tận cùng, Nó toan trốn trại mấy lần. Bất ngờ bị chuyển về Suối Máu nên ý định bất thành... và cũng thời gian nầy, những gia đình ở Bà-rịa thăm nuôi chồng, các bà xầm xì với chồng cũng là bạn tù của Nó về Vợ nó... ít gởi quà hoặc thăm nuôi Nó, và cuối cùng Nó cũng hiểu được rằng: Vợ nó bây giờ không còn là của Nó nữa, tiếc rằng quá sớm, quá sớm để thay lòng đổi dạ một con người, chuyện xảy ra chỉ hơn một năm kể từ ngày Nó bước chân vào trại tù.

Nó lầm lì ít nói hơn, suốt ngày anh em thấy Nó may vá cái ba-lô lấy vải từ chiếc võng nhà binh đã cũ, nếu tinh ý sẽ thấy Nó đang chuẩn bị cho một cuộc trốn trại. Và, lũ chó săn (Ăng-ten) cũng có đứa tinh ý nên... chỉ trong vòng 4 tháng, Nó bị chuyển từ K2 đến K4, rồi K3 và về lại K2 (Trại tù Suối Máu có 5 khu, từ K1 đến K5). Cho đến đêm Giáng-Sinh năm 1978, cuộc nổi dậy của tù nhân Suối Máu khiến cho bọn VC sợ hãi điều động bộ đội và cả Trung-đoàn xe Tăng T54 bao vây bên ngoài... và, Nó có tên trong số tù nhân bị chuyển về nhà tù Chí-Hòa như đã nêu trên.

Ở trại tù A20 Xuân-Phước, mọi tù nhân đều bị lao động khổ sai, đào mương, vét cống, cuốc đất trồng khoai mì, kéo cày thay trâu v..v.. Mỗi người chỉ nhận được 2 chén khoai mì H34 với nước muối cho một bữa ăn, loại khoai mì H34 chỉ để dùng trong kỹ nghệ chế biến, cho heo ăn, Heo cũng không thèm ăn.

Suốt 6 năm tù sau cùng... Nó chỉ ăn toàn bắp, khoai mì H34 với nước muối. Vào dịp tết âm lịch, Nó cũng như mọi tù nhân khác được ăn hai bữa cơm, mỗi bữa 2 chén cơm lưng, với một cục thịt heo lớn bằng ngón tay, và chỉ có thế. Mẹ chết, Vợ bỏ, tứ cố vô thân không ai thăm hỏi, sức lực không còn, thêm vết thương tinh thần quá lớn làm Nó suy sụp thấy rõ. Một hôm đang lao động, Nó ngã gục vì kiệt sức, may nhờ có Bác-sĩ Trần-quý-Nhiếp Thiếu Tá Nhảy Dù ở chung một nhà tù với Nó cứu chữa kịp. Không có thuốc men gì cả, Anh Nhiếp châm cứu Nó bằng những cây kim làm bằng giây điện thoại lượm được khi đi lao động. Tình trạng đói khát và lao động khổ sai nầy nếu kéo dài... có lẽ Nó không thể nào sống nổi.

Một hôm đang đào ao cá trong trại, Nó gặp anh Ph. ở đội Văn Thể (Văn nghệ - Thể thao) rủ Nó xin về đội “Văn Thể” để đỡ phải lao động ngoài nắng. Anh Ph. là một kép hát cải lương (hiện còn ở VN), bị án tù 10 năm về tội “Phản cách Mạng” khi tham gia vào một phong trào phục quốc sau 30 tháng 04/1975. Anh Ph. biết rõ Nó có nghề Ảo thuật, Nó là bạn của Nhạc-sĩ Bảo-Thu tức Ảo-thuật-Gia Nguyễn-Khuyến. Chỉ còn con đường cuối cùng là vào đội Văn Thể may ra mới có thể sống còn để về với 4 đứa con, mà đứa lớn nhất 13 hoặc 15 tuổi (1981).

Gần cuối năm 1981, một anh trong đội “Văn Thể” gọi Nó lên nhận quà của gia đình gởi. Phản ứng đầu tiên là Nó giận dữ và cay đắng nói với anh ấy: “Anh còn cách nào đùa giỡn hay hơn nữa không?!”. Ai cũng biết, nhiều năm nay Nó là “con Bà Phước”, những ai không bà con, họ hàng thân thích, không hề nhận được chút quà bánh nào từ bên ngoài gởi vào, anh em đều gọi là con Bà Phước. Nhưng thật tình Nó có quà thật, quà của “Vợ” nó gởi! một gói quà nhỏ gần 2 ký lô, trong chứa thức ăn để dành được lâu ngày vì người tù không có điều kiện để nấu nướng. Một anh bạn khác nhìn thấy Nó đang mân mê gói quà trên tay, anh mừng rỡ nói: “Mầy cũng có...quà hả?!”, câu nói đầy thiện ý, mừng giùm cho bạn nhưng sao Nó nghe như một lời mỉa mai: “Mầy mà cũng có quà nữa sao?”.
 

Những tấm lòng người dân VNCH đối với các cự tù “cải tạo”

Năm 1982, Nó có tên trong số người được thả về, trại tù cấp phát $70.00 tiền VC lúc đó, số tiền chỉ đủ để đỡ đói lúc đi đường thôi. Nó được công an trại tù chở bằng xe ra tới Ga xe lửa La-Hai, từ đây Nó đón Tàu về Biên-Hòa. Trên đường đi, mỗi khi Nó ăn uống gì xong, khi gọi tính tiền, những người bán hàng đều trả lời: “Có người trả rồi”, năn nỉ mãi người bán hàng cũng không chịu nói là ai đã trả tiền giùm Nó. Nó đành phải cám ơn người bán (người bán hàng có thể là một Ông già, một Chị, một cô Gái hoặc một em nhỏ tuổi chừng 15, 16). Một chút xúc động về tình người làm tim nó cảm thấy ấm áp, cái cảm giác mà Nó tưởng chừng đã tê liệt suốt những năm tháng tù tội. Hành trang của Nó khi ra khỏi trại tù cộng sản chỉ vỏn vẹn một bàn chải đánh răng đã cùn, một bộ đồ mặc trên người với hàng trăm mảnh vá, trên lưng áo cũng như hai bên ống quần còn nguyên dấu hai chữ “cải tạo” bằng sơn đen to tướng. Nhưng cũng nhờ thế, ai thấy cũng muốn giúp đỡ, ăn uống gì xong người bán đều trả lời: “Đã có người trả tiền!”.

Về đến chợ Biên-Hòa lúc 04:00 giờ sáng, có người chỉ cho Nó tìm mấy xe hàng chở Dưa Hấu, họ sẽ đi Bình-Giã chở Dưa lúc 06:00 giờ. Người Tài xế tốt bụng cho Nó đi nhờ xe về “quê vợ” Nó ở Bà-Rịa.

Hơn 08:00 giờ sáng xe tới Bà-Rịa, Nó lững thững đi bộ về “Nhà”. Khi ngang qua một tiệm bán Bún Bò Huế, một người gọi tên Nó: “Ê, P.O vào đây!”, Nó quay lại thấy X. “Pháo-Binh”, anh bạn nầy được thả về trước, trên tay cầm xấp vé số. X. lôi Nó vào quán, lần đầu tiên sau 7, 8 năm Nó mới được ăn một tô bún bò ngon như thế. Hai người ăn xong, đang xỉa răng thì X. ngập ngừng: “Trước hết, mầy hãy bình tĩnh nghe tao nói!”. Nó biết X. sẽ nói gì... vì từ lâu Nó đã chuẩn bị tinh thần để nghe chuyện nầy. X. tiếp: “Sau khi tao nói xong, mày muốn về thì...về, còn như không muốn về thì...mầy theo tao, ở tạm nhà tao rồi tính sau!”...và, với giọng trầm buồn X. kể những điều nghe, biết về “Vợ” nó. Nó ngồi nghe X. kể với gương mặt giá băng và bất động, duy chỉ có ánh mắt là không thể nào giấu được nét xúc động!

Thằng X. thương bạn nhưng không biết phải làm sao! X. gọi café sữa đá cho hai đứa. Nó không thể nào uống nổi một hớp dù chỉ là một hớp nhỏ. Không gian như ngừng đọng, khi thằng X. lay khẽ tay Nó như chợt tỉnh, nói nhỏ với X. như nói với chính Nó: “Tao phải về, từ lâu... tao chưa được gặp con tao, tụi nhỏ bây giờ chắc... lớn lắm!”

Gần một tháng sau ngày về “Nhà” gặp được mặt con, người ta thấy Nó khiêng vác ở chợ cá Bà-Rịa. Ban đêm Nó ngủ ngồi ở sạp cá, dù mỏi mệt cách mấy Nó cũng không dám nằm, Nó không muốn người ta thấy Nó...tàn tạ như vậy! Vào những đêm trăng, mấy người đi Chùa ở Xóm Cát, khi ngang qua Nghĩa-địa Việt-Hoa, thỉnh thoảng có người nhìn thấy Nó ngồi... khóc trước Mộ của Mẹ nó... Nhiều người ở Bà-Rịa đều biết cái chết thảm thương của Bà Cụ, nhất là hai mẹ con cô Th..., Y-tá làm việc trong bệnh viện. Người ta nói, khi mẹ nó bị bệnh không biết nặng nhẹ, “Vợ nó” mang vào rồi quay lưng như người xa lạ. Bệnh viện thời việt cộng (tháng 01 năm 1976) không có trách nhiệm nuôi ăn bệnh nhân, các con của Nó thì còn quá nhỏ, đứa lớn nhất chỉ mới 9 tuổi, vài ngày sau Mẹ nó chết... vì đói!!! Đám ma mẹ nó chỉ có một người duy nhất mang hòm đi chôn, đó là Cậu em vợ của Nó. Người hàng xóm cho 4 tấm ván tạp để đóng hòm, tạm gọi là hòm vì 4 tấm ván kích thước, dày, mỏng khác nhau.

Đôi khi uất ức về cái chết thảm thương của mẹ nó, Nó đã gói sẵn con dao bén nhọn trong tờ báo... nhưng khi nghĩ đến những đứa con, Nó không muốn các con của Nó mồ côi Mẹ hoặc Cha, hoặc cả hai!

Năm 1988, Nó vượt biên bằng ghe và định cư ở California tháng 03 năm 1989.

Người đàn bà nguồn hy vọng cuối cùng của Nó khi ra khỏi tù, có với nhau 4 đứa con đã phản bội Nó trong những năm tháng bị tù đày, nghiệt ngã... trong nhà tù của Việt cộng, cùng sống trên mảnh đất nầy. Làm thơ, viết văn... lại được tán dương, ca ngợi hết lời!

Nó im lặng, thở dài, ngao ngán! Trường hợp của Nó, bạn bè đều biết, đôi lần muốn chia sẻ... nhưng Nó vẫn giữ im lặng!