Wednesday, March 27, 2024

Biên niên sử của hầu hết những rạp Xi - nê mà chỉ những ai sống tại SG Nam VN trước 1975 mới biết như một phần lịch sử , ký ức văn hoá của mình

 Biên niên sử của hầu hết những rạp Xi - nê mà chỉ những ai sống tại SG Nam VN trước 1975 mới biết như một phần lịch sử, ký ức văn hoá của mình.

Chỉ không rõ tên nhân vật xưng “ tôi “ của ghi chép này
Danh sách các rạp Xi-nê trước 1975 được sắp theo thứ tự abc. Hiện tại, một số lớn các rạp hoặc không còn tồn tại hoặc đã ngưng hoạt động.
Alhambra – Nguyễn Cư Trinh.
Alliance Française – Đồn Đất. Rạp của Trung Tâm Văn Hóa Pháp chiếu toàn phim Pháp không có phụ đề Việt ngữ, hiếm khi thấy người Việt đi xem. Mặc dù mấy ông Tây rất ghét Mỹ, điều đó ai cũng biết, nhưng đôi khi có chiếu phim Mỹ. Tôi xem được một phim xưa do Humphrey Bogart đóng và phim “Easy Rider” (1969) ở rạp này.
Aristo – Lê Lai. Sau 1954 đây là nơi trình diễn thường trực của đoàn cải lương Kim Chung di cư từ miền bắc vào nam, đoàn có thêm tên phụ là Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô. Tài tử chính là nữ nghệ sĩ Kim Chung.
Asam – Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao. Rạp này đã dẹp quá lâu rồi, ít ra là vào khoảng từ giữa đến cuối thập niên 50. Rạp không còn vết tích gì nên tôi không còn nhớ, khi bạn bè nhắc lại tôi cũng không hình dung ra sao. Chỉ đến khi nhớ lại phim “Le Retour de Jack Slade” (1955) mà tôi đã xem ở rạp này mới nhớ ra là rạp nằm trong một hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng gần góc đường Phan Thanh Giản. Gần đó có tiệm mì Cây Nhản nổi tiếng một thời, về sau nghe nói tiệm mì này dời về ngả tư hay ngả năm Bình Hòa gì đó.
Cẩm Vân – Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Có những rạp mà dân coi xi-nê làm như không có duyên hội ngộ nên chẳng bao giờ có dịp bước chân vào. Đối với tôi, mặc dù rạp này cách rạp Văn Cầm Phú Nhuận không bao xa nhưng tôi chưa bao giờ đến xem ở đây. Điều này chứng tỏ rạp Cẩm Vân đã không chiếu phim đúng với sở thích của tôi.
Rạp Cao Đồng Hưng – Bạch Đằng, chợ Bà Chiểu, Gia Định.
Rạp Cao Đồng Hưng ngày nay là một nhà sách.
Casino Đa Kao – Đinh Tiên Hoàng. Rạp tương đối khang trang, phim khá chọn lọc, giá cả nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện nằm gần Cầu Bông. “Major Dundee” (1965), “The Great Race” (1965).
Casino Sài Gòn – Pasteur. Tên mới là Vinh Quang. Năm lên 10 tuổi, tôi được bác của tôi cho lên Sài Gòn ăn ở để đi học trường Taberd. Ngay hôm đầu tiên, tôi đã được cho đi xem xi-nê ở rạp này vì bác tôi có giấy mời coi thường xuyên bao nhiêu lần cũng được. Và cứ thế, mỗi chiều cuối tuần tôi đều được coi xi-nê khoái tỷ, rạp chiếu phim gì cũng coi tuốt hết. Thời đó, những phim trình chiếu rất chọn lọc nên ít khi gặp phim dỡ. Một kỷ niệm nhớ đời và một bài học quí giá cho tôi là phim “20.000 Dặm Dưới Đảy Biển” (1954). Trong rạp có bán kem eskimo rất ngon nhưng rất đắt tiền. “20000 Leagues under the Sea” (1954), “Drum Beat” (1954), “Touchez Pas Au Grisbi” (1954).
Rạp Casino Sài Gòn ngày nay.
Cathay – Công Lý, Chợ Cũ.
Catinat – Tự Do.rạp xi-nê tí hon này nằm trong một hành lang từ đường Tự Do xuyên qua đường Nguyễn Huệ về sau chuyển đổi thành phòng trà ca nhạc với nhiều tên: ‘Au Chalet’, và ‘Đêm Màu Hồng’, nơi ra mắt của ban ‘Phượng Hoàng’ thời kỳ trước khi nhập với ca sĩ Elvis Phương.
Cầu Muối – Bến Chương Dương, Khánh Hội.
Cây Gỏ – Minh Phụng, Chợ Lớn.
Diên Hồng – Yersin.
Đại Đồng – Nguyễn Văn Học, Gia Định.
Đại Đồng – Cao Thắng. Một rạp nhỏ chuyên chiếu phim cũ nhưng khá chọn lọc, giá cả thật nhẹ nhàng
Đại Lợi – Thoại Ngọc Hầu, Chợ Ông Tạ.
Đại Nam – Trần Hưng Đạo. Rạp Đại Nam là rạp sang trọng nhất Sài Gòn, những phim mới được chiếu trước tiên ớ đây và một vài rạp khác rồi một thời gian sau mới được đưa đi tỉnh hoặc các rạp nhỏ chuyên chiếu lại. Mỗi phim gồm có nhiều cuộn nên thời đó mấy rạp cùng chiếu chung một phim bằng cách chia lệch giờ khởi chiếu. Mỗi khi chiếu xong một cuộn thì có người xách đi giao cho rạp kế tiếp và ngược lại. Có lần rạp Đại Nam đang chiếu phim “Pillow Talk” (1959) thì anh chàng đi giao cuộn phim đã mãi mê uống nước giải khát hay sao đó mà để mất đi cuộn phim phải giao. Tất cả các rạp cùng chiếu phim đó đành phải ngưng lại và đem phim khác ra chiếu đỡ. Mãi một thời gian sau, không rõ cuộn phim được chuộc lại hay phải mua phim mới Pillow Talk mới được chiếu trở lại. Đến khi rạp Rex ra đời vào năm 1962 thì rạp Đại Nam xuống còn ngôi vị thứ hai. Một kỷ niệm khác là khi mới bắt đầu chơi nhạc cùng với Lê Hựu Hà vào khoàng năm 1965, chúng tôi được dịp trình diễn một lần ở đây. Lúc đó, Hà mới bắt đầu sáng tác và giao cho tôi trình bày bản “Chiều Về” vì phần hòa âm đòi hỏi Hà phải bận độc tấu guitar suốt bài nhạc không tiện hát chính ngoại trừ những đoạn ca bè theo. Vài năm sau, một Đai Hội Nhạc Trẻ được tổ chức ở đây. Vào cái thời tiểu thuyết của nữ văn sĩ Trung Hoa Quỳnh Dao đang hồi cực thịnh và được quay thành phim liên miên trong đó có “Mùa Thu Lá Bay” với đôi tài tử đẹp trai đẹp gái Đặng Quang Vinh và Chân Trân, tôi đã xem phim này ở rạp Đại Nam và được cái hân hạnh đưa một cô gái Tàu thật trẻ đẹp đi xem cùng
Photobucket
Rạp Đại Nam ngày nay.
Đại Quang – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Rạp này hoàn toàn Trung Hoa chẳng có gì là Việt Nam hết vì họ chiếu toàn phim Tàu nên tôi không bao giờ có dịp bước chân vào. Tuy vậy, tôi lại có một kỷ niệm dễ thương với rạp này do rạp nằm ngay cạnh vũ trường Bách Hỷ, nơi tôi chơi nhạc mấy năm cuối cùng trước khi rời khỏi Việt Nam vào hạ tuần tháng 4 năm 1975. Do cảm tình đặc biệt, mỗi tối khi tôi đến Bách Hỷ, một em trai chạy đến đem chiếc xe gắn máy honda cà tàng của tôi đi cất cùng với những chiếc xe của khán giả rạp Đại Quang. Khi vũ trường tan, tôi vừa bước ra khỏi cửa là đã thấy em dắt chiếc xe lại cho tôi. Dù đó là một cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường nhưng đối với tôi nó có một cái gì thật là ấm lòng chiến sĩ.
Đông Nhì – Lê Quang Định, Gia Định.
Eden – Tự Do. Rạp này quá nổi tiếng và đối với tôi cũng nhiều kỷ niệm. Trước nhất, rạp này không nằm ngoài mặt đường mà lại nằm sâu trong một thương xá cũng được gọi là Eden. Đến rạp, khán giả có thể đi vào từ phía đường Tự Do, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đều được cả. Cái tên rạp tiếng Pháp tự nó cho biết rạp này đã có từ thời Pháp thuộc và kiến trúc bên trong thì đúng y như những rạp bên Pháp được thấy qua các phim xi-nê. Ở Sài Gòn, chỉ duy nhất rạp này mới có hai balcons (tầng lầu). Thông thường, khi xem xi-nê, ngồi balcon 1 là hay nhất vì nhìn xuống vừa tầm mắt không mỏi cổ và không bị cái đầu của người ngồi hàng ghế trước che khuất tầm nhìn. Balcon 2 của rạp Eden thì nhỏ hơn và quá cao nên nhìn sâu xuống muốn cụp cái cổ luôn nên phần đông khán giả chẳng màng để ý đến sự hiện hữu của nó, ngoại trừ dân đào kép Sài Gòn thì chiếu cố rất nhiệt liệt và gọi đó là ‘pigeonnier’ (chuồng bồ câu). Đi xem xi-nê một mình khi rạp hết chổ phải lên đó thì buồn lắm vì trên ấy đào kép mùi mẩn chẳng cần biết trên màn ảnh chiếu cái gì, nhất là những cặp ngồi ở hàng ghế chót có sau lưng nguyên bức tường thì tha hồ lâm ly chẳng lo có ai nhìn đến trong cái tối mù mù. Ca sĩ Dalida đã trình diễn ở rạp này. Một lần khác, tôi đi xem một ban nhạc jazz của Tây Đức (thời đó còn Tây Đức và Đông Đức). Mấy năm sau đó, cũng tại rạp này, tôi được xem phim “Parlez-Moi d’Amour” (1961) do Dalida đóng. Một kỷ niệm cho các bạn cùng học Taberd với tôi là khoảng đầu thập niên 60, không rõ là do nhã ý của ai, cả lớp chúng tôi và các lớp khác được đưa đến rạp này để xem phim “Les Pilliers du Ciel” (Pillars of the Sky (1956)), một phim cao bồi của Mỹ do Jeff Chandler và Dorothy Malone đóng. Còn về kỷ niệm cá nhân thì mấy năm sau nữa, vào một chiêu cuối tuần, tôi mời cô đào của tôi đi nhảy đầm matiné nhưng cô ấy nói đã lở mua vé xem phim “My Fair Lady” (1964) tại Eden cùng với một cô bạn rồi. Tôi kêu cô đào của tôi bán cái vé lại cho người khác rồi đi chơi với tôi. Thế là buổi hôm đó, cô bạn gái của cô đào của tôi tự nhiên thấy có một người đàn ông lạ hoắc lù lù đến ngồi kế bên. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy buồn cười và nghĩ xa hơn về chuyện đời thì thấy là khi mới quen nhau còn chịu đèn thì mọi việc đều ổn thỏa, đến khi không còn nồng thắm nữa thì cái gì cũng không xong: nào là bận cái này cái nọ, nhức đầu nóng lạnh đủ mọi lý do trên đời!
Photobucket
Phía sau của rạp EDEN nằm trên đường Nguyễn Huệ, thời điểm không rõ. (Ảnh từ Internet.)
Hào Huê – Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn.
Hoàng Cung – Triệu Quang Phục, Chợ Lớn.
Hồng Liên – Hậu Giang, Chợ Lớn.
Hùng Vương – Pétrus Ký, Sài Gòn.
Hưng Đạo – Nguyễn Cư Trinh. Trong thời kỳ tin tức chiến sự sôi động biến chuyển từng ngày từng giờ của tháng 4 năm 1975, tinh thần của mọi người giao động đến cực độ và linh tính sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra. Tôi cũng như bao nhiêu người khác còn biết làm gì hơn là chờ đợi những gì sẽ đến. Một ngày thượng tuần của tháng, tôi đến rạp Hưng Đạo xem xi-nê trong cái tinh thần đó, một cách để giết thì giờ chớ tâm trí của tôi không thể chú ý một cách bình thường vào tình tiết đang diễn ra trên màn ảnh. Trong trạng thái xem phim hờ hửng đó thì bổng phim ngưng chiếu và đèn trong rạp bật sáng lên, không phải dấu hiệu của cảnh đứt phim thông thường vì có một số rất đông khán giả ùn ùn đi ra ngoài. Tôi cũng đi theo và được biết là dinh Độc Lập vừa bị dội bom. Bây giờ, tôi cố nhớ lại lúc đó xem phim gì cũng không ra, chỉ nhớ loáng thoáng là một phim Pháp. Còn về thời điểm chính xác của biến cố, tôi thấy chẳng cần phải truy tìm thêm vì lúc nào cũng có sẵn trên Internet.
Khá Lạc – Nguyễn Tri Phương. Rạp nằm cạnh tiệm phở Tương Lai hiện vẫn còn bán phở. Một anh bạn thân cho biết lần đầu tiên anh được xem xi nê là tại rạp này với phim “Samson and Delilah” (“Samson et Dalila”). Riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn không biết rạp này cho đến khi anh bạn nói tới, mặc dù nhà của tôi cùng nằm trên đường Nguyễn Tri Phương kể từ năm 1962. Như vậy, rạp này có lẻ đã hoạt động trước thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Một điểm khác nói về tiệm phở Tương Lai cạnh rạp, trước Tết năm 1966, chúng tôi đến ăn phở ở đây và phải trả 200 đồng cho một tô phở, trước đó chỉ khoảng 150 đồng. Đấy là thời điểm vật giá bắt đầu leo thang vào những năm 60.
Khải Hoàn – Võ Tánh và Cống Quỳnh. Trong cuộc đời làm người xem xi-nê của tôi, có những rạp không có duyên với tôi nên tôi chưa bao giờ được bước chân vào các rạp đó. Trái lại, có những rạp rất có duyên với tôi nên xem hết phim này đến phim khác. Rạp Khải Hoàn là một. Có thể yếu tố quyết định là rạp này tuyển chọn phim đúng ý tôi và địa điểm tọa lạc nơi thị tứ, giá tiền lại tương đối phải chăng nên tôi đã xem khá nhiều phim ở đây trong đó có phim “Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm”, và “Mưa Lạnh Hoàng Hôn”. Riêng phim sau, chương trình quảng cáo có phụ diễn tân nhạc nhưng hôm đó khán giả đã chờ mãi vẫn không thấy hơi hám ca nhạc sĩ đâu hết. Cuối cùng có nghệ sĩ Ngọc Phu bước ra sân khấu làm một màn tự biên tự diễn không đàn địch phụ họa chi cả, anh giả làm tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí, quạ kêu qua loa cho xong rồi chiếu phim. Hiện tại, anh và gia đình đang sinh sống ở Nam California và tôi cũng đã có lần sinh hoạt văn nghệ với nghệ sĩ đàn anh này. Một kỷ niệm khác của tôi ở rạp này là gặp phải nạn móc túi. Gặp hôm mua vé có chen lấn, tôi cảm thấy có mấy ngón tay cứ muốn thọt vào túi quần và tôi đã kịp chận lại. Rất có thể đây là một tay chưa chuyên nghiệp. Bằng không thì chắc số tiền ít ỏi của tôi cũng đã bay mất rồi!
Kim Châu – Nguyễn Văn Sâm, Chợ Cũ. Cảm tình của tôi đối với rạp này tương tợ như đi mua một chiếc xe mới. Khi rạp bắt đầu khai trương thì họ đã quảng cáo sẽ chiếu phim “Sapho” (1960). Tuy chỉ là một phim hạng B hoặc C nhưng nữ tài tữ Tina Louise có vẽ đẹp duyên dáng nên tôi đến xem phim trong tinh thần như vừa mua sắm được một chiếc xe như ý. Qua đến những phim kế tiếp, rạp Kim Châu đã tuyển chọn những phim cùng loại nên rất được khán giả hài lòng.
Kinh Đô – Lê Văn Duyệt. Đây là một rạp xi-nê hạng sang, chỉ kém hơn rạp Đại Nam một tí. Rạp khai trương sau rạp Đại Nam nhưng lại chỉ hoạt động một thời gian tương đối ngắn ngủi rồi biến thành một chi nhánh của cơ quan USAID. Tôi có một kỷ niệm với rạp này. Hai cha con tôi vốn là những người ghiền xi-nê, Hôm đó, cha tôi đưa tôi lên Sài Gòn để nhập học nội trú sau một kỳ nghỉ hè, tôi được thả ở ngoài phố để đi dạo mua sắm. Tôi vẫn được sống một cuộc sống tự do như thế từ khi còn nhỏ. Còn khá nhiều thì giờ trước khi phải trình diện mấy sư huynh La San Taberd, tôi bèn lang thang đến rạp Kinh Đô nơi đang chiếu phim “La Dernière Torpille” (“Torpedo Run”) (1958). Trùng hợp thay, tôi gặp lại cha tôi cũng vừa đến đó, thế là cha tôi cho tôi cùng vào xem phim, tôi đở phải bỏ tiền ra mua một cái vé xi-nê.
Kinh Thành – Hai Bà Trưng, Tân Định.
Lạc Xuân – Gia Long, Gò Vấp. Mặc dầu đơn vị của tôi tọa lạc ở Hạnh Thông Tây cách rạp này không bao xa và sau này có rất nhiều lần đi ngang qua nhưng tôi không hề biết đến sự hiện hữu của nó. Một người bạn thân lúc còn ở quân ngũ đã được huấn luyện gần đó có nhắc nên tôi mới biết. Bà con ở Gò Vấp thì biết rạp này rất rõ.
Lam Sơn – Bùi Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Võ Tánh chéo góc với nhà thờ Huyện Sĩ, vòng qua bên hông rạp phía đường Lê Lai thì có nhà của nữ kịch sĩ Kim Cương. Rạp xi-nê này chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn ngủi rồi bị đóng cửa vì vị trí của rạp quá gần một nhà thờ, vào thời kỳ đó là Đệ Nhất Cộng Hòa, nên Công Giáo đang có ưu thể.
Lê Lợi – Lê Thánh Tôn. Rạp chiếu phim cũ nhưng tuyển chọn toàn phim hay và chỉ chiếu trong 1, 2, hoặc 3 ngày rồi đổi sang chiếu phim khác. Những phim classic như “High Noon”, “Crimson Pirates”, “Vera Cruz”, “Waterloo Bridge”, …được chiếu đi chiếu lại luôn, nếu hụt xem phim nào thì khán giả cứ kiên nhẩn chờ đợi, một thời gian sau thế nào phim đó cũng sẽ được chiếu lại. Lịch trình chiếu phim được niêm yết trước gần một tháng để khán giả chuẩn bị ngày đi xem phim. Rạp Lê Lợi có thể nói là rạp duy nhất ở Sài Gòn chiếu phim theo phương thức này, một ít rạp khác có bắt chước phần nào nhưng rồi cũng không theo hoàn toàn hoặc sau đó phải thay đổi phương hướng.
Rạp Lê Lợi được nhóm học sinh chúng tôi chiếu cố khá nhiều vì rạp chiếu phim hay và giá vé rất nhẹ. Thời đó, chúng tôi đi học ngày hai buổi nên buổi chiều nào chán học là chúng tôi rũ nhau ‘cúp cua’ đi xem xi nê ở rạp này.
Ngoài ra, một người bạn cùng lớp là con cháu của chủ rạp Lê Lợi nên chúng tôi hay ‘dí’ hắn để kiếm vé mời xem xi nê ở rạp này khỏi tốn tiền, chỉ phải đóng tiền thuế rất nhẹ mà thôi.
Khi qua đến Mỹ, tôi mới được biết loại rạp xi nê này được gọi là ‘revival movie theater’, chỉ khác một chi tiết là họ chiếu hai phim liên tiếp cùng có chủ đề giống nhau. Ai chịu đựng nổi thì ngồi xem hết, ai chịu không nổi thì phải bỏ về thôi vì quá đói bụng, họ không cho đem thức ăn từ ngoài rạp vào và trong rạp chỉ có bán popcorn (bắp rang Mỹ), kẹo, bánh, soda (nước ngọt có ga như: Coca Cola, 7Up…).
Thời đó vào đầu thập niên 80, video cassette vừa mới xuất hiện chưa có ra phim nhiều, những phim Âu Châu rất hiếm, chỉ có thể xem tại các rạp revival này. Rạp Nuart là một, rạp này nằm ở tận Santa Monica cách xa sở làm của tôi cả tiếng đồng hồ lái xe, nhưng khi gặp phim đã kết thì giá nào cũng đi xem cho được. Buổi chiều vừa ra khỏi sở là phóng xe ào ào cho kịp giờ chiếu phim, vào rạp mua một bịt popcorn rồi tử thủ xem cho hết luôn hai phim. Cũng may là popcorn giúp cơ thể chống đói rất hay, nếu chịu không nổi nữa thì có kẹo chocolate, chơi vào một cây ‘Three Musketeers’ là bao tử êm ngay. Tôi học cái bí quyết này từ mấy cô gái Mỹ, đi chơi với họ rất tự nhiên thoải mái. Khi date họ mà trong túi lại ít tiền thì mấy cô ấy bảo cứ mua cho họ một thỏi chocolate là xong, khỏi cần ăn tối để đi chơi mục khác.
Lệ Thanh – Phan Phú Tiên, Chợ Lớn.
Lido – Đồng Khánh, Chợ Lớn. Rạp này có một lịch sử khá ly kỳ. Rạp nằm trong vùng Chợ Lớn cạnh Đại Thế Giới cũ chuyên chiếu phim Âu Mỹ trong khi các rạp chung quanh đều chiếu phim Tàu. Đến cuối thập niên 60, rạp ngưng hoạt động để cho Mỹ mướn làm khu cư trú và câu lạc bộ. Sau năm 1975, rạp hoạt động chiếu phim trở lại và chỉ mới gần đây, rạp đã bị đập phá ra để nhường chổ cho một công trình xây dựng nhà cao tầng hay gì đó. Bạn nào có kỷ niệm đẹp hay quyến luyến rạp này thì chỉ còn có thể nhớ qua ký ức mà thôi vì rạp đã biến mất không còn nữa.
Kỷ niệm của cá nhân tôi đối với rạp này cũng khó quên. Khi còn học ở bậc tiểu học, cha mẹ tôi cho tôi vào nội trú vì gia đình ở tỉnh xa, mỗi lần vào Sài Gòn rước tôi ra chơi thì lưu trú ở khách sạn Kim Linh đối diện với rạp Lido. Có lần tôi đã mò qua xem một phim của ông già cao bồi Randolph Scott. Về sau, khi chơi nhạc cho các club Mỹ, có lần tôi cộng tác với anh Ngọc Hàm tự là Hàm Râu vì anh để râu giống như Nguyễn Cao Kỳ và cũng hay giả giọng của vị tướng này rất là giống. Tôi thật sự khâm phục biệt tài ăn nói trước khán giả của anh, ngay cả khán giả Mỹ cũng phải lăn ra cười khi anh diễu trên sân khấu. Không biết anh học những cái tếu đó ở đâu hoặc chính anh tự nghĩ ra mà quá hay. Vào khoảng năm 1969, anh đang là luật sư tập sự và cũng là trưởng ban nhạc do anh lập ra, nhạc sĩ của ban nhạc thường là ráp nối, ít ai cộng tác lâu dài có lẽ vì không có duyên với anh hay sao đó. Hôm đó, anh lãnh một show chơi nhạc cho Mỹ tại club Lido. Thành phần gồm có: Ngọc Hàm (keyboard, vocal), Ngọc Hải (lead guitar, vocal) lúc đó cũng đang tập sự luật sư, Đăng Chí (bass guitar, vocal), tôi không còn nhớ tay trống là ai, ca sĩ có Connie Kim lúc đó chúng tôi thường hay gọi cô bằng tên Phượng. Như vậy, có thể nói ban nhạc chúng tôi xem như là trí thức nhất rồi vì lúc đó tôi cũng đang theo học Luật Khoa và sau này đã lấy bằng Cữ Nhân Luật Khoa Công Pháp vào năm 1973.
Được dịp chơi nhạc ngay phố phường Sài Gòn, Chợ Lớn, chúng tôi rất thích thú thay vì phải di chuyển xa xôi ra các đơn vị tiền đồn của quân đội Mỹ như ở Phước Thành chẳng hạn. Đây là một căn cứ hỏa lực (fire base), khi đi chơi nhạc, xe van của chúng tôi phải chạy lên Dĩ An, rồi từ đó chiếc trực thăng Chinook CH-47 nuốt chửng nguyên chiếc xe van có ban nhạc chúng tôi ngồi trong đó, xong nhả ra tại căn cứ. Chúng tôi chơi nhạc giữa lúc những khẩu đại pháo gà cồ khạc đạn ầm ĩ rung rinh cả barrack và sân khấu trình diễn.
Trở lại chuyện Lido, Ngọc Hải và tôi nhận thấy còn khá nhiều thì giờ trước khi trình diễn nên hai đứa thả bộ lang thang trên đường Đồng Khánh. Mãi mê nhìn ngắm thiên hạ nhất là mấy cô xẩm duyên dáng nên khi quay trở về club Lido thì đã trễ đi một chút. Ngọc Hàm bèn mắng hai đứa chúng tôi bằng một câu xem như là trí thức như sau: “Hai đứa bây tưởng tụi bây là ai?”. Ngọc Hải và tôi chỉ còn nước ngậm câm.
Chính Ngọc Hàm cũng đã làm thay đổi hẳn cuộc đời chơi nhạc của tôi. Trước khi gặp Ngọc Hàm, tôi còn chơi rhythm guitar (guitare d’accords hay accompagnement) rồi từ khi chơi nhạc với Ngọc Hàm lúc đó đang cần một tay bass nên anh bảo tôi chuyển qua đánh bass. Cũng nhờ đó mà sau này khi chuyển qua nhà nghề chơi nhạc với các nhạc sĩ đàn anh suông sẽ hơn lại còn nhờ biết ca hát, gọi là bass ca, nên lương bổng cũng cao hơn một tí.
Long Duyên – Hồ Văn Ngà.
Long Phụng – Gia Long, chuyên chiếu phim Ấn Độ.
Long Thuận – Trương Công Định và Nguyễn An Ninh.
Long Vân – Phan Thanh Giản. “El Dorado” (1966).
Photobucket
Rạp Long Vân, thời điểm không rỏ. (Ảnh từ Internet.)
Majestic – Tự Do. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Nơi đây được xây thành vũ trường Maxim tầng trên và sân khấu trình diễn ca vũ nhạc kịch tầng dưới do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách. “Les Portes Claquent” (1960).
Minh Châu – Trương Minh Giảng.
Minh Phụng – Hồng Bàng, Chợ Lớn. Thật ra, nơi đây là đình Minh Phụng, khi xưa có lúc khai thác chiếu phim ban ngày.
Mini Rex – Lê Lơị. “Paint Your Wagon” (1969).
Moderne – Trần Văn Thạch, Tân Định. Tôi không có duyên với rạp này nên chưa bao giờ có dịp bước chân vào. Theo lời một thân hữu, rạp này có vài ba đặc điểm: lối vào rạp đâm ngang hông phía giữa những hàng ghế, ghế bằng cây nên khi dứt phim khán giả cùng đứng dậy làm cho ghế cây khua lên rầm rầm, và cũng vì ghế cây nên đoàn quân rệp tha hồ cắn phá đám khán giả trong bóng tối của buổi chiếu phim.
Mỹ Đô – Trần Nhân Tôn và Vĩnh Viễn. Tên xưa là Thành Chung, tên mới là Vườn Lài.
Photobucket
Rạp Mỹ Đô ngày nay.
Nam Quang – Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp.
Nam Tiến – Bến Vân Đồn.
Nam Việt – Tôn Thất Đạm, Chợ Củ. “The Bravados” (1958).
Nguyễn Huệ – Nguyễn Huệ. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là cơ sở U.S.O.. “Journey to the Center of the Earth” (1959).
Nguyễn Văn Hảo – Trần Hưng Đạo.
Olympic – Hồng Thập Tự. “To Hell And Back” (L’Enfer des Hommes (1955)).
Oscar – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.
Phi Long – Xóm Củi.
Palace – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.
Photobucket
Rạp Palace ngày nay.
Quốc Thái – Trần Quốc Toản, Chợ Lớn.
Quốc Thanh – Nguyễn Trải.
Rạng Đông – Pasteur. Tên cũ là Hồng Bàng. “The Ambassador’s Daughter” (1956).
Photobucket
Rex – Nguyễn Huệ. “Dirty Harry” (1971), “Le Passager de la Pluie” (1969).
Thanh Bình – Phạm Ngũ Lão. “Le Magnifique” (1973).
Thanh Vân – Lê Văn Duyệt, Hòa Hưng.
Thủ Đô – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Tên cũ là Eden.
Trung Hoa – Đồng Khánh, trước nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
Văn Cầm – Trần Hưng Đạo. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là đại lý Honda đầu tiên tại Việt Nam.
Văn Cầm – Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Rạp này có cái lệ luôn luôn chiếu một phim ngắn của 3 anh hề ‘Stooges’ trước khi chiếu phim chính. Rạp rất rẻ tiền không có máy lạnh nên rất ngộp thở. Tôi không bao giờ ngồi vào ghế mà lúc nào cũng đứng phía sau cùng nơi có cái màn đen che ánh sáng. Khi nào ngộp thở quá thì vén màn thò đầu ra ngoài thở không khí mát một chút rồi thả màn ra coi tiếp.
Vào năm 1961, tôi đang theo học lớp 5e chương trình Pháp (đệ lục chương trình Việt hoặc lớp 7 bây giờ) ở trường Taberd. Khoảng thời gian đó, tôi mê xem xi nê rạp Văn Cầm gần nơi tôi ở đến độ bỏ đi consigne (bị phạt phải vào lớp chiều Thứ Báy lúc nghỉ học) nên bị mấy sư huynh hành hạ tơi bời nhớ đời luôn khiến tôi không thể nào quên được cái khoảng đời học sinh tương đối đen tối của lúc đó.
Mời các bạn click vào những giòng dưới đây để xem lại những phim ngắn của mấy anh chàng Stooges.
Văn Hoa – Trần Quang Khải, Đa Kao
Photobucket
Rạp Văn Hoa ngày nay.
Văn Lang – Cách Mạng, Phú Nhuận.
Victory Lê Ngọc – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn.
Việt Long – Cao Thắng.
Vĩnh Lợi – Lê Lợi. Khoảng đầu thập niên 60, có xảy ra một vụ nổ lựu đạn trong rạp, có người bị thương nặng phải cưa chân. “Deliverance” (1972).Rạp này chuyên chiếu phim Pháp và Phim xưa, giá vé rẻ và có thể ngồi cả ngày chung với nhóm P.D
Ngoài những rạp xi-nê bình thường còn phải kể đến những nơi có chiếu phim không bán vé.
Trường Taberd. Thỉnh thoảng các sư huynh chiếu phim cho học sinh xem vào chiều cuối tuần không có lớp học, phim thì cũ rích, máy thì nhỏ chỉ đủ xem trong phòng lớp. Về sau này, khi có auditorium khang trang với balcon đàng hoàng không thua gì các rạp xi-nê lớn ngoài phố. Tôi được xem phim “Ivanhoe” (1952) ở đây. Học sinh nội trú Taberd được xem phim mỗi tối Chúa Nhật. Phim tôi nhớ nhất là “Titanic” (1953) lúc tàu đang chìm, ban nhạc và những người ở lại với chiếc tàu cùng nhau hát bài “Chúa ơi con nay gần kề…” thật cảm động. Mặc dù bị đám học sinh nội trú chê là “ciné Taberd toujours local”, các sư huynh ở đây tiến bộ hơn các sư huynh ở tỉnh, những pha cụp lạc hôn hít vẫn được tôn trọng để nguyên cho học sinh xem. Trái lại, khi tôi học nội trú ở trường Saint Joseph, Mỹ Tho, phim nào có cảnh hôn hít đều bị cắt xén trước khi chiếu. Có lần, vì không kịp kiểm duyệt trước nên lúc chiếu có màn hôn hít, sư huynh phụ trách bèn điều chỉnh cho hình ảnh mờ đi chẳng còn thấy cái gì mặc cho đám học sinh la ó om xòm.
Đơn vị Công Binh. Nhà của tôi ở gần một căn cứ quân đội. Một thượng sĩ được lệnh chiếu phim mỗi tuần vài ba đêm cho trại gia binh xem. Phim thuộc loại 16mm mượn của quân đội Hoa kỳ nên dĩ nhiên là chẳng có phụ đề Việt ngữ gì cả. Ngược lại, phim rất mới và không có chiếu ngoài rạp Sài Gòn, hoặc ít ra cũng phải một hay hai năm sau mới có chiếu như phim “Les Félins” (1964). Điểm ngộ nghĩnh của nơi chiếu phim này là người chiếu phim lại cần đến khán giả. Những phim nào dễ hiểu thì bà con còn coi cho vui, phim nào khó hiểu thì bà con bỏ đi về hết một phần vì trời tối khuya khoắc. Có lần chỉ còn tôi và một người bạn ráng ở lại để cho thượng sĩ phụ trách vui lòng. Một điểm kỹ thuật là máy chiếu phim không có hoặc hư hoặc mất cái ống kính chiếu phim đại vỹ tuyến nên gặp phim loại nà̉y là hình ảnh cứ dẹp đép theo chiều đứng. Thượng sĩ chiếu phim bèn nghĩ ra cách là để máy chiếu nằm chéo góc với màn ảnh nên xem cũng tạm tạm mặc dù một bên lớn, một bên nhỏ. Tôi được xem những phim độc đáo như “Goldfinger” (1964), “She” (1965)…
Câu Lạc Bộ Mỹ. Nhờ chơi nhạc trong các căn cứ quân đội Hoa Kỳ, tôi được mấy anh G.I.s mời trở lại thăm viếng và cùng xem xi-nê với họ. Như đã nói, đây là những phim 16mm nhằm giải trí cho quân nhân Hoa Kỳ. Tôi được xem phim “Your Cheatin’ Heart” (1964) kể lại cuộc đời của ca sĩ nhạc country Hank Williams. Phim loại này chắc chắn khó được các nhà phân phối phim Sài Gòn mua nhập vì người Sài Gòn có thể nói rằng chẳng hề biết Hank Williams là ai cả. Nói về nhập cảng phim, tôi vẫn còn nhớ đến hảng Cosunam khi mở đầu phim luôn có cảnh bộ lư đang hun khói cùng với đoạn nhạc hiệu lập đi lập lại nghe đến phát chán. Ngoài ra còn có hảng Mỹ Vân đã đóng góp rất nhiều cho nền điện ảnh Sài Gòn qua phần nhập cảng, chuyển âm và sản xuất phim.
Đài Truyền Hình Số 11. Khai sinh cùng lúc với Đài Truyền Hình Số 9, Đài 11 của quân đội Hoa Kỳ nhằm thông tin và giải trí cho quân nhân và nhân viên Mỹ ở Sài Gòn. Tiết mục chương trình có phần chiếu phim. Nhiều phim rất hay đã được chiếu qua Đài 11. Tôi còn nhớ có phim “The Last Man on Earth” (1964) do Vincent Price đóng. Về sau, rạp ở Sài Gòn có chiếu phim “The Omega Man” (1971) do Charlton Heston đóng với cốt chuyện tương tự nói về người sống sót cuối cùng trên địa cầu…. Đài 11 tồn tại cho đến sau khi Hiệp Định Paris được ký kết năm 1973 và toàn bộ cơ cấu quân đội Hoa Kỳ rút đi. Những đêm cuối cùng trước khi Đài 11 tắt sóng, tôi được xem phim “Un Homme et une Femme” / “A Man and a Woman” (1966).
Hội trường của công ty Shell. Được biết ở đây có chiếu phim, tôi đến xem phim “Play Misty For Me” (1971). Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu có thì tôi đã bỏ lỡ cơ hội rất tốt vì căn cứ theo phim đã xem thì nơi này chọn lựa phim rất hay.

Thursday, March 21, 2024

PHỐ TÀU, NGHIÊN CỨU SINH VÀ MỘT MƯU ĐỒ: CHINA TOWN - PHỐ TÀU

Thế giới gọi phố Tàu là China town, nhưng riêng ở Việt Nam thì không gọi như thế cho dù khu Chợ Lớn ở thành phố Hồ Chí Minh chính là China town (phố Tàu). Với tôi, có lẽ danh từ “ phố Tàu” gần bản chất với những khu người Hoa sống và làm ăn tập trung như thế hơn cái tên China town nghe có vẻ như muôn vàn cái tên khác chẳng chết ai. 

China town sinh ra từ bao giờ tôi không rõ. Các cuộc di dân trên thế giới đã bắt đầu diễn ra từ khi có lịch sử loài người. Nhưng riêng đối với người Tàu thì các cuộc di dân có những tính chất khác biệt. Người Tàu đi khắp thế giới. Ở đâu cũng có người Tàu từ một thị trấn nhỏ xa xôi đến những thành phố sầm uất. Và ở đâu, người Tàu cũng cụm lại với nhau và dựng lên khu vực riêng của họ mang tên China town - phố Tàu. 

Các cộng đồng khác như Nhật, Nga, Đức, Pháp...và những người hồi giáo là những cộng đồng có những cuộc di dân lớn. Ở đâu, những người cùng chủng tộc hay tôn giáo cũng tìm cách sống cụm vào nhau do những yêu cầu về văn hóa và sinh sống. Nhưng không một cộng đồng nào có thể làm lên một thứ có tên là China town - phố Tàu. 

Trước năm 1992, tôi không hiểu gì về China town - phố Tàu ngoài nghĩa “ một cộng đồng di dân người Trung Quốc sống tập trung”. Vào tháng 7 năm 1992, tôi được Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc mời đến thăm Úc. Trong chuyến đi ấy, tôi đã đọc một cuốn sách nghiên cứu về China town của một nhà nghiên cứu Úc. Tôi xin tóm tắt những gì tác giả này viết về China town : 

Khi China town được dựng lên, chúng ta ( người Úc ) đến đó với tinh thần đi thăm quan một cộng đồng di dân có một nền văn hóa khác biệt. China town lúc đầu giống như một hội chợ của người Trung Quốc tổ chức trên đất Úc. Chúng ta đến đó xem họ múa lân và thưởng thức các món ăn Trung Quốc. Chúng ta thực sự thấy vui vẻ khi trên đất nước chúng ta có một cộng đồng đầy bản sắc bởi Úc là một đất nước đa bản sắc nên sự chấp nhận các cộng đồng khác không có gì quá khó khăn. 

Rồi chúng ta lãng quên đi. Mười năm sau chúng ta trở lại China town. Chúng ta giật mình. China town đã phát triển quá nhanh. Nhưng điều đáng suy nghĩ nhất là China town không phải là khu cộng đồng của người Trung Quốc định cư trên đất Úc hay là một hội chợ của Trung Quốc nữa mà nó đã biến thành một tiểu Trung Quốc trên đất Úc với sức ảnh hưởng không nhỏ của nó. China town này muốn mở rộng mãi mãi và muốn Trung Quốc hóa những khu vực mà China town lấn tới. Đến lúc này, niềm vui và tính tò mò của chúng ta về trò múa lân cùng với hương vị của ẩm thực Trung Quốc không còn mà thay vào đó là một nỗi lo sợ. 

Nỗi sợ hãi của tác giả cũng là nỗi sợ hãi của rất nhiều người ở những quốc gia mà những người Trung Quốc đến định cư và làm mọc lên những China town. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ Donald Trump đã liên tục cảnh báo người Mỹ về mối nguy hiểm của con bạch tuộc mang tên Trung Quốc. Và trrong cách nhìn của tôi thì các China town là những cái hang của con bạch tuộc đó. 

Đọc trên trang web SOI, tôi thấy một bài viết rất hay về hội họa Kenya trong một triển lãm quốc tế. Điều bài báo nói đến là “ một triển lãm hội họa Kenya ( Châu Phi ) nhưng lại là tranh đặc Tàu của các họa sỹ người Hoa định cư ở đó. Một cú đánh trắng trợn và một cái chết thảm thương của nền hội họa của nước Châu Phi này. 

Nhớ lại cuộc cải tạo tư sản sau năm 1975 ở thành phố Hồ Chí Minh. Người ta có thể vẫn tranh luận về cuộc cải tạo này khi bàn đến lịch sử sau 1975 của Việt Nam và đặc biệt khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng một điều tôi muốn nói đến là việc “xóa” đi hệ thống tài phiệt người Hoa ở Chợ Lớn. Nếu không, nền kinh tế Việt Nam bây giờ sẽ chịu chi phối còn khủng khiếp hơn nhiều lần của những người Hoa ở cái quận 5 với diện tích khiêm tốn đó. Cuộc cải tạo tư sản lúc đó và sự ra đi khỏi Việt Nam của hàng trăm vạn người Hoa đã tháo đi một phần mối hiểm họa khổng lồ cho Việt Nam sau này. Nhưng chúng ta đâu ngờ, sau gần một nửa thế kỷ, người Trung Quốc đang trở lại Việt Nam với không ít thách thức và đe dọa về nhiều mặt như văn hóa, môi trường, kinh tế và cả an ninh. 

Tôi đã nói khá kỹ về phần nghiên cứu về China town của nhà nghiên cứu xã hội Úc trên một tờ báo trong nước từ những năm 1990 của thế kỷ trước. Tất nhiên ý kiến về một nguy cơ có vẻ “xa xôi” này chẳng làm ai chú ý. Giống như khởi đầu của những China town - phố Tàu trong những ngày đầu xuất hiện. 

NGHIÊN CỨU SINH

Trong một tài liệu nghiên cứu của của một tác giả Mỹ cho thấy : từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, hàng năm Trung Quốc gửi từ 70 đến 80 ngàn nghiên cứu sinh, sinh viên đến Mỹ. Những nghiên cứu sinh này được nhận học bổng toàn phần của chính phủ Trung Quốc. Họ học hành rất chăm chỉ. Sau khi kết thúc thời gian học của mình, họ tìm cách ở lại làm việc trong các cơ quan, trường đại học, viện nghiên cứu... của Mỹ rồi dần dần trở thành công dân Mỹ. 

Tác giả đưa ra tài liệu này nói : việc các nghiên cứu sinh Trung Quốc ở lại Mỹ là chủ trương của chính phủ Trung Quốc. Tài liệu này cảnh báo về nguy cơ người Trung Quốc sẽ “ăn rỗng” các cơ quan của Mỹ. Đây thực sự là một chiến lược lâu dài của Trung Quốc trong mưu đồ bành trướng của họ. 

Nhiều người chúng ta không thể quên tư liệu về cố Tổng bí thư Lê Duẩn khi gặp Mao Trạch Đông. Lúc đó, Mao Trạch Đông đã công khai về chiến lược đưa người Trung Quốc trước hết đến các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam bằng nhiều hình thức. Chính cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã tìm mọi cách chống lại việc Trung Quốc đưa công nhân và lính Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian chiến tranh trên danh nghĩa giúp đỡ Việt Nam chống lại quân đội Mỹ. Nhưng thực chất lúc đó, Trung Quốc đã bắt tay Mỹ và phản bội lại người Việt Nam trong cuộc chiến tranh này.

Tôi đã từng viết về một thanh niên Trung Quốc bán trứng ở Australia. Anh ta kiên nhẫn ngày ngày xách một khay trừng đi bán. Sự kiên nhẫn của anh mà tôi nhìn thấy làm cho tôi nghĩ rằng sẽ không có gì có thể làm cho sự kiên nhẫn của anh ta gục ngã. Dù anh ta không nói nhưng tôi biết bên trong đôi mắt một mí kia là một tham vọng ghê gớm và một sự kiên nhẫn kinh hoàng. Đã có những người Trung Quốc nhẫn nại bán từng gói lạc rang húng lìu, từng chiếc bánh bao nhân thịt…trở thành những tỉ phú. Và người thanh niên bán trứng kia cũng mang tham vọng ấy. 

Và lúc này, tôi muốn nói về Lou, một sinh viên Trung Quốc theo học ở Mỹ. Tôi gặp Lou ở nhà một giáo sư Mỹ. Người giáo sư bạn tôi thấy gia đình Lou khó khăn đã giúp đỡ cậu bằng cách đưa cậu về ở nhà mình. Lou ở trong một căn phòng nhỏ dưới tầng hầm. Cậu nói bố mẹ cậu làm công nhân và thật khó để kiếm được số đô la cho cậu đóng tiền học ở mức thấp nhất trong một năm. 

Nhưng sau một năm, cậu đã tìm cách xin được học bổng toàn phần. Cậu cứ lặng lẽ gặp từng giáo sư Mỹ dạy cậu và những người có liên quan ở trường và cuối cùng cậu đã “thắng” từng giáo sư dẫn đến “thắng” tất Hội đồng giáo sư và họ đồng ý trao học bổng toàn phần cho cậu. Và hàng ngày, cậu vẫn lặng lẽ lên xe của con cái chúng ta để đi nhờ đến trường trong tuyết lạnh.

Một buổi sáng tôi nhìn thấy cậu ăn mỳ tôm với sườn nướng mà chúng tôi nướng từ chiều hôm trước chưa ăn hết. Cậu ngồi ăn kiên nhẫn không để lại một chút thịt nào trên cái xương sườn đó. Đó là mỳ tôm Hảo Hảo mà chúng tôi mang từ Việt Nam sang và sườn nướng ướp theo kiểu Mỹ. 

Có thể, mỳ tôm và sườn nướng kia không hợp với khẩu vị của cậu như há cảo, vằn thắn, màn thầu… Nhưng mỳ tôm của ai, sườn nướng ướp gia vị gì không quan trọng với cậu lúc này. Cậu cần phải ăn và cần phải đi tiếp con đường đã vạch trong đầu cậu và có thể cả những tham vọng phía sau đôi mắt một mí ấy. 

Trong mấy ngày ở trong ngôi nhà người bạn giáo sư, tôi thấy cậu mang dáng vẻ của một cậu bé con nhà ngèo và yếu thế qua cách ăn nói, đi đứng. Nhưng có thể đến một ngày nào đó, cậu bỗng hiện ra là một người khác và mua một biệt thự sang trọng, giành lấy một trang trại… và đến lúc dựng lên một cái China town và biến nơi cậu ở nhờ thành vương quốc của người Trung Quốc và biến những người giúp đỡ cậu trở thành người làm thuê cho cậu chứ không phải ở trong một phòng dưới tầng hầm mà người ta giành cho cậu với sự chia sẻ và biến những người khác thành kẻ cầu xin mình. Nhưng bây giờ, cậu chỉ là một sinh viên như con cái chúng ta. Cậu đang cầu xin người khác hãy thương cậu, hãy giúp cậu. Và với lòng nhân ái, những người tốt đã đưa bàn tay về phía cậu. Đấy là một trong những tính cách của người Trung Quốc 

Năm 2009, trên báo Vietnamnet, tôi đã chủ trì bàn tròn với các nhà nghiên cứu kinh tế là bà Chi Lan, ông Nguyễn Minh Phong và ông Thân Đức Việt về “cuộc xâm lăng của hàng giả, hàng độc hại Trung Quốc vào Việt Nam”. Sau đó, tham tán kinh tế - thương mại của sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội ông Hồ Tỏa Cẩm đã làm việc với Bộ Thông tin và Truyền thông để phản đối nội dung của bàn tròn này. Ông Hồ Tỏa Cẩm khẳng định tình hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng thực tế đã phản lại những tuyên bố của ông ta về tình hữu nghĩ Trung Quốc - Việt Nam. Càng ngày, chúng ta càng nhận rõ những gì mà Trung Quốc đã và đang làm với Việt Nam đặc biệt vấn đề biển đông mà người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam thường xuyên lên tiếng phản đối. 

Việc đưa người Trung Quốc đến các quốc gia trên thế giới để từng bước mở rộng “ biên giới” Trung Quốc trên thế giới là một chiến lược không thay đổi và càng ngày càng được thực hiện một cách quyết liệt mà một hình thức rất phổ biến là China town. Đã từ lâu, thế giới đã cảnh báo về điều này. Mối đe dọa của Trung Quốc mà tôi tạm gọi bằng một cái tên chung là China town không chỉ là mối đe dọa đối với các quốc gia nhỏ mà đối với cả những quốc gia lớn như Mỹ hay Úc. 

( Bài in trên báo Pháp Luật & Cuộc Sống. Anh dưới : Phố Tàu. nguồn internet  )

Tuesday, March 19, 2024

Thời gian chúng ta còn trên dương thế này không còn được nhiều như trước nữa, xin hãy cố gắng gặp lại nhau trong tình huynh đệ để sau này không hối tiếc.

Lê Khắc Trung 11, Nguyễn Thanh 71, Chung Tử Ngọc 72, Nguyễn Thiện Tòng 11, Lê Tinh Anh 75, Lưu Văn Thuần Đoàn 1, Nguyễn Rinh 72 

From:lucchung972@gmail.com

To:Diendannhakythuat
Cc:Luc Chung
Tue, Mar 19 at 5:33 PM
Kính thưa quý NT và quý CH  

Hội Ái Hữu NKT Nam California đã có một buổi họp về việc nhận hay không nhận tổ chức Đại Hội 19.
  Tất cả các thành viên có mặt trong buổi họp đều đồng ý nhận tổ chức kỳ Đại Hội lần thứ 19 tại Nam California vào khoảng cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 năm 2024, lúc đó thời tiết có thể đã dịu mát và không kẹt vào kỳ tốt nghiệp của các cháu học sinh, sinh viên, vé máy bay cũng rẻ hơn so với những tháng hè. 
 Chúng tôi sẽ thông báo ngày giờ chính xác khi chúng tôi book được nhà hàng. 
 Vì vậy chúng tôi thông báo để quý NT và quý CH tiện việc sắp xếp thì giờ để cùng đến gặp mặt,  chung vui với nhau.
 Thời gian chúng ta còn trên dương thế này không còn được nhiều như trước nữa, xin hãy cố gắng gặp lại nhau trong tình huynh đệ để sau này không hối tiếc. 
 Trân trọng. 

Hội AHNKT Nam California. 
19 tháng 3 năm 2024

Thay mặt BCH 

Chung Tử Ngọc.

Tuesday, March 12, 2024

Tù Biệt Kích

XVIII. CẢI TẠO

       Trong vòng mấy ngày đầu mới đến trại tù Phong Quang, tù biệt kích được cấp phát quần áo tù mới mầu xám, khác nhau ở các lằn sọc để phân biệt: đỏ và trắng cho tù chính trị, gián điệp, biệt kích, xanh trắng cho loại tù linh tinh, thường phạm.

       Thượng Sĩ Bội vào phòng giam cùng với một tù nhân chính trị. Trong khi ông ta đọc lớn số tù, một người tù khác sẽ đóng dấu con số lên bộ quần áo tù. Tù “cán bộ” (được tin cẩn giao trách nhiệm) có nhiệm vụ giao nhiệm vụ làm việc (đan giỏ tre) ngay tức khắc cho những người tù mới đến trại. Phải làm việc ngay tức khắc chưa ấn định số lượng. Cán bộ cai tù để ý quan sát đám tù nhân, họ đáp ứng thế nào với nếp sinh hoạt nơi nhà tù mới (Phong Quang). Các buổi học tập buổi tối, tuyên truyền chính trị, sau đó là phần tự kiểm thảo. Trong phần học tập đầu tiên này, các cán bộ sẽ đánh giá tinh thần, tình trạng sức khỏe, và biết tuân theo kỷ luật hay không?

        Rồi sau đó, giờ làm việc tăng lên, số lượng sản phẩn cũng từ từ tăng lên, cho đến khi người tù chỉ có đủ thời gian làm việc, ngủ và nhồi sọ “chính trị”. Trong vấn đề cải tạo, sản xuất, cần phải có tổ chức, việc đầu tiên cán bộ phải chọn (chỉ định) một người tù lên làm trưởng phòng. Nhiệm vụ của người này, điểm danh mỗi buổi sáng và buổi tối. Sau này, tù nhân được chia vào đội sản xuất (lao động) và một người sẽ được chỉ định làm đội trưởng… đó là chính sách để dễ kiểm soát tù nhân.

        Trại tù Phong Quang thuộc cấp hạng “quốc gia”, dành cho tù nhân “khổ sai” cải tạo lao động, dưới quyền cai quản bộ Nội Vụ. Mỗi người tù được hưởng chế độ 15 đồng một tháng cho vấn đề ăn uống và các vấn đề lặt vặt khác. Con số đã cao hơn nhà tù tạm thời Thanh Trì chỉ có 12 đồng, và các nhà tù ở cấp tỉnh.

        Lúa gạo, và các loại rau, củ do người tù trồng trọt chăm sóc, sản xuất hay mua từ các cửa hàng do chính quyền điều hành, quản lý. Gạo mua với giá 30 xu (0.3 đồng) một kilo, 4.5 đồng một tháng cho mỗi tù nhân, số tiền còn lại 10.5 đồng trang trải cho các thứ: rau củ, thịt, cá, hai bộ quần áo tù mỗi năm, dép (râu), tô ăn cơm, bàn chải, kem đánh răng, dầu thắp đèn, và thuốc lá.

        Thực phẩm cũng là một thứ vũ khí để kiểm soát tù nhân. Người nào hợp tác, chịu khó làm việc sẽ được hưởng số luợng thực phẩm nhiều hơn, tô ăn cơm to hơn, giá trị khoảng 18 đồng một tháng. Tuân theo lệnh của cai tù,cán bộ… sẽ được hưởng nhiều hơn những kẻ “cứng đầu”… Người tù nào không đáp ứng chương trình cải cạo, sẽ bị giảm bót phần ăn chỉ còn 12 đồng một tháng, phải ăn độn khoai.

        Người tù cứng đầu khó cải tạo có thể bị phạt cùm chân, theo lệnh của vị trưởng trại, Đại Úy Trịnh Văn Thích. Hình phạt này bắt đầu từ năm 1970, đúng vào dịp Tết cổ truyền của người Việt. Trong đêm Giao Thừa, tù biệt kích gom lại, ngồi uống trà, ăn bánh kẹo và nói chuyện. Đúng nửa đêm, họ giật mình nghe tiếng súng nổ bên ngoài trại tù, binh sĩ Quân Đội Nhân Dân đón mừng năm mới bằng những loạt súng tiểu liên AK-47, súng trường SKS bắn lên trời. Tiếp theo tù biệt kích trong phòng số 4 để ý tiếng súng thay pháo rồi hát bài Quốc Ca VNCH và bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống (Diệm). Trong vài phút sau nhiều toán quân an ninh võ trang cùng với cai tù chạy vào bên trong nhà tù trấn áp đám tù biệt kích.

        Một cai tù nhanh chóng mở cửa phòng số 4, bước vào bên trong phòng tối, la hét hỏi “Ai làm chuyện đó? Ai làm? Người nào? Ai ca hát… làm ồn ào? Ai là người chủ xướng?” Tiếp theo, cai tù quay mũi súng tiêu liên AK-47 xung quang căn phòng.

        Phạm Ngọc Ninh lên tiếng “Đó là Tiếp. Xem thử coi. Ông sẽ thấy, Tiếp là người chủ xướng.” Trần Văn Tiếp một biệt kích trong toán Hector, đang nằm trên sàn cho tù ngủ, ngồi dậy nghĩ thầm “tới đâu thì tới”. Anh hùng biệt kích Tiếp nhẩy xuống, bước ra giữa phòng.

        “Chính tôi.” rồi nói tiếp theo “Tôi là người chủ xướng.”

        Cai tù ra dấu cho Tiếp bước ra khỏi phòng rồi khóa cửa lại. Những người tù còn lại nghe ngóng biết cai tù dẫn Tiếp đi ra xa… Năm phút sau, họ nghe ba tiếng súng AK, đám tù biệt kích như đông cứng lại (nghĩ rằng họ đã bắn người bạn tù Trần Văn Tiếp), rồi tiếp theo tiếng Tiếp la hét vì bị đánh đập… như vậy anh ta vẫn còn sống. Anh hùng biệt kích Tiếp bị biệt giam cùm 45 ngày, vết sẹo nơi cổ chân vĩnh viễn ở lại với anh ta.

        Người bị cùm biệt giam kế tiếp là Trần Văn Tư. Không phải anh ta “quậy” chỉ vì đến không đúng chỗ, không đúng lúc (oan ơi ông Điạ!). Anh Tư là biệt kích trong toán (ngắn hạn) Strata 114, bị bắt ngày 28 tháng Sáu năm 1968 trong tỉnh Quảng Bình (Bắc Việt). Tù biệt kích Strata 114 được đưa đến trại tù Phong Quang trước toán biệt kích (dài hạn 34A) Hadley ít lâu.

        Vài ngày trước Tết Nguyên Đán, ông Thượng Sĩ coi tù Bội tươi cười nói với đám tù biệt kích, họ sẽ được chơi ping pong sau khi xong Tết Nguyên Đán. Được chơi đánh ping pong làm cho người tù phấn khởi, chờ đợi nhưng không có tin tức gì hơn. Họ không biết đó cũng là một phần trong chương trình cải tạo. Chưa một người tù biệt kích nào lên tiếng đặt câu hỏi, cho đến buổi sáng ngày mùng hai Tết, khi Thượng Sĩ Bội bước vào phòng giam tù binh, ông ta gặp Trần Văn Tư.

        “Thưa cán bộ” người tù biệt kích Tư lên tiếng “Hôm nay đã qua ngày mùng hai Tết, vẫn chưa thấy ai chơi đánh ping pong.”

        Ông Bội không trả lời Tư, tiếp tục bước đi quanh phòng rồi bước ra ngoài. Ông ta trở về bộ chỉ huy trại tù, làm phiếu phạt trình lên Thượng Úy Trực. Thay mặt Bộ Chỉ Huy trại, ông Trực ký thuận rồi chuyển lên trại trưởng Đại Úy Thích. Với chữ ký của cấp chỉ huy, Thượng Sĩ  Bội lại căn chòi lá của người tù hình sự được ở ngoài làm việc, gọi người tù hình sự tên Đại đi theo ông ta.

        Ông Bội cùng với Đại và mấy người tù nữa vào phòng chứa tù biệt kích Strata 114 Trần Văn Tự. Ông ta đọc to lệnh của bộ chỉ huy trại tù phạt Trần Văn Tư, ba mươi ngày (cùm trong khu kỷ luật). Hình phạt cùm một chân. Lý do phạt Trần Văn Tư, đương sự chỉ trích nhà nước (chính quyền) và lười biếng.

        Biệt kích Trần Văn Tư bị phạt chỉ vì “dám” hỏi ông Bội chuyện chơi Ping Pong? Anh Tư học được một điều trong trại tù miền Bắc Việt Nam… Đừng bao giờ “đòi hỏi”. Đọc xong lệnh phạt, ông Bội nghênh ngang nhìn Đại cùng đám tù hình sự lôi tù biệt kích Strata Tư vào khu vực biệt giam.

        Đến ngày thứ 30, ông Bội đến trước phòng giam người tù biệt kích hỏi.

        “Anh Tư, Anh có nhận tội của anh không?”

        Tư không trả lời hay không đủ khả năng trả lời… Ông Bội đóng sầm sánh cửa lại, khóa bên ngoài rồi đi thẳng lên bộ chỉ huy trại tù. Ông Thượng Sĩ Quân Đội Nhân Dân lại viết giấy xin gia tăng thêm 15 ngày vì tội “cứng đầu”. Đại úy Thích không hỏi lý do, nhanh chóng ký tên…

        Đến ngày thứ 45, cánh cửa phòng kỷ luật biệt kích Trần Văn Tư lại mở ra, người tù được lệnh trở về phòng giam cũ. Vết thương bị cùm chân chưa lành (đa số người bị cùm có vết sẹo … kỷ niệm), anh Tư đứng không vững, phải bò lết về buồng giam cũ và được các bạn tù biệt kích đỡ lên phần “giường” của anh ta. Mấy người bạn tù lau vết thương cổ chân anh Tư, bị cùm sắt cứa chẩy máu, vết thương làm độc có cả giòi bọ.

        Ngày 14 tháng Mười năm 1970, Lê Văn Ngung trưởng toán biệt kích Hadley bị phạt theo lệnh phạt “truyền thống” của trại tù. Ngung bị dẫn độ vào khu trừng phạt của trại tù cùm chân. Anh ta đã đoán biết trước… cũng đến phiên mình, lúc đó mới hiểu người tù bất khuất Mai Văn Tuấn bị trừng phạt như thế nào. Trong buồng nhỏ cùm chân kỷ luật người tù, Lê Văn Ngung đọc tên người tù mới nhất bị giam trước mình, bò lết trên vũng máu, viết bằng máu của mình “Mai Văn Tuấn, ngày 2 tháng Tám 1970” Đó là tất cả những gì còn lại của Mai Văn Tuần, người tù chết trong cùm sắt ngục tù cộng sản.

        Lê Văn Ngung bị cùm 30 ngày. Như những người bị cùm trước đó, đến ngày thứ 30, Trung Sĩ Thông đến khu kỷ luật, mở cùm, ra dấu cho anh Ngung bước ra, hỏi nguời tù có nhận tội không? Anh Ngung trả lời, không làm điểu gì sai quấy, phạm kỷ luật, và tên Thông lại báo cáo cùm Lê Văn Ngung thêm 15 ngày như người tù Trần Văn Tư. Lê Văn Ngung sống sót, nhưng Mai Văn Tuấn không may.

        Mai Văn Tuấn tình nguyện “biệt kích Mỹ” lúc còn dân sự, đơn vị Dân Sự Chiến Đấu (CIDG), canh phòng căn cứ huấn luyện Long Thành. Trong năm 1967, Tuấn quyết định gia nhập đơn vị biệt kích Strata, bị bắt lúc làm trưởng toán biệt kích, dò thám đường xâm nhập của quân đội Bắc Việt nơi hướng bắc khu vực phi quân sự trong tháng Năm 1968.

        Mới đầu, anh Tuấn cùng các toán viên Strata bị giam trong nhà tù Thanh Trì ngoại ô Hà Nội. Trong thời gian ở Thanh Trì, tù biệt kích đàm tiếu, Tuấn có vấn đề trong đầu (điên khùng, không được bình thường). Không ai biết tình trạng tâm lý của Tuấn thế nào, thực sự điên khùng hay giả bộ, tuy nhiên làm đám cai tù Thanh Trì gai mắt.

        Khi đám tù Strata (toán biệt kích của Tuấn) được đưa vào nhà tù Phong Quang cuối tháng Năm 1970, Tuấn bị cô lập ra khỏi toán tù binh Strata, cho vào khu kỷ luật cùm chân ngay tức khắc. Khắc nghiệt hơn, Mai Văn Tuấn bị cùm cả hai chân, bắt chéo nhau. Tù hình sự kể lại những ngày cuối cùng của Mai Văn Tuấn.

        Sau khi bị cùm hai tháng, Tuấn tuyệt thực phản đối. Một cai tù cảm thấy có điều gì không đúng, mở cửa buồng giam, tuyết phục Tuấn ăn uống để giữ sức khỏe, nhưng Tuấn từ chối. Mấy ngày sau, Đại Úy Thích cùng cán bộ cải tạo đến buồng giam khuyến khích anh Tuấn ăn uống, nhưng Tuấn vẫn từ chối. Ông Thích ra lệnh cho nhà bếp, nấu cơm có cả thịt, đem vào phòng giam Tuấn có mặt ông ta, đưa cho người tù Tuấn. Anh Tuấn cầm tô cơm tạt vào mặt Đại Úy Thích. Cánh đửa đóng sầm lại, khóa kỹ.

        Một, hai ngày sau, cai tù đến để biết người tù Mai Văn Tuấn cởi hêt quần áo (thường buổng giam kín, rất nóng bức), nằm trên đống phân nước tiểu của mình… Tuấn lặng lẽ ra đi, giã từ đồng đội, kiếp đọa đầy đêm ngày 2 tháng Tám năm 1970.

 

Friday, March 8, 2024

Vì sao chim én có thói quen 'Không ưa người nghèo, yêu người giàu ?

Chim én là một trong số ít loài chim hoang dã gần gũi với con người, xuất hiện trong các tác phẩm văn học dân gian, truyện cổ tích.
Theo quan niệm của nhiều nơi, chim én bay vào nhà làm tổ là dấu hiệu tốt, là điềm báo may mắn gia chủ sắp có tin vui, tài vận hưng vượng,... 
Điều này khiến nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chuyên gia phong thủy không khỏi hiếu kỳ và đi tìm câu trả lời cho vấn đề này.

Thời cổ đại, các nhà thơ thường nhắc đến loài chim én, cho rằng gia đình nào có chim én ghé đến làm tổ thì rất tốt, là nơi có phong thủy đẹp. Thi nhân đời Đường Lưu Vũ Tích viết trong một bài thơ rằng:
 
Bên cầu Chu Tước cỏ hoa,
Ô Y đầu ngõ, bóng tà tịch dương.
Én xưa nhà Tạ, nhà Vương,
Lạc loài đến chốn tầm thường dân gia.
 
(Ô Y hạng - Tản Đà dịch thơ)

Ngày xưa, chim én thường chỉ làm tổ dưới mái hiên của những gia đình giàu có, bề thế. Vì vậy, khi chim én đến làm tổ ở những gia đình bình thường, người ta cho rằng là điềm báo gia đình đó sắp phát tài phát lộc.
 
Theo người xưa, chim én cũng là loài chim tượng trưng cho điềm lành, cũng như chim khách.
 
Lý giải của các chuyên gia, nhà khoa học :

Trên thực tế, chim én không thích thân cận con người, chúng thường chọn những hang đá hoặc vách đá hoang dã để xây tổ, chỉ có những con chim nhạn (họ Én) hoặc chim én vàng mới xây tổ ở ban công, mái nhà của con người.

Sở dĩ chim nhạn và chim én vàng chọn xây tổ ở ban công, mái nhà của con người là bởi tập tính của loài chim én thường chọn những nơi chúng cảm thấy an toàn, tin cậy để làm tổ do tổ của chúng làm từ bùn đất. 

Như chúng ta đã biết, bùn đất rất dễ bị nhão, tan ra mỗi khi gặp nước, vì thế không thể để nước mưa rơi vào.

Nhìn ở một góc độ khác, chất lượng, kết cấu, kiến trúc nhà ở của người có tiền bao giờ cũng tốt hơn, kiên cố hơn, có thể che gió chắn mưa, đương nhiên sẽ hấp dẫn chim én đến xây tổ. 

Vì vậy, người ta mới cho rằng chim én làm tổ trong nhà là một điềm báo tốt cho thấy nơi gia chủ đang sống có phong thủy đẹp, bình yên và tốt lành.

Theo các chuyên gia, có 3 yếu tố chính để thu hút chim én đến làm tổ đó là: Thức ăn, nước uống và an toàn.

Nguyên Anh
 
 

1. Khám Phá về Loài Chim Én

Loài chim én, thuộc họ Nhạn, là nhóm các chim sẻ thú vị, thích nghi với cuộc sống săn mồi trên không. Tại châu Âu, chúng thường được gọi là 'nhạn nhà'. Chim én có nguồn gốc từ châu Phi và nổi tiếng với khả năng bay nhanh cũng như là biểu tượng của sự tươi mới, mùa xuân.

  • Tên thường gọi: Chim én
  • Tên tiếng Anh: Marketing
  • Tên khoa học: Hirundinidae
  • Nguồn gốc: Châu Phi
  • Đặc tính: Xây tổ trong hang
  • Ngành: Động vật có dây sống
  • Lớp: Chim
  • Bộ: Sẻ
  • Họ: Nhạn
  • Cân nặng: 40 – 184 g
  • Kích thước: 10 – 24 cm
Loài Chim Én trong Bức Tranh Tổng Quan
Chim Én: Vẻ Đẹp và Âm Nhạc Trên Bầu Trời

2. Sắc Màu và Hòa Âm của Chim Én

Lông én thường có màu xanh dương, đôi khi hơi ngả sang màu đen (lam sẫm) hoặc màu lục bóng ở phần trên, sọc ở phần dưới thường màu trắng.

Tiếng hót của loài chim này thường trong trẻo và líu lo. Chúng chính là một ca sĩ thiên tài khi có thể biến tấu giọng hót của mình thành các âm độ khác nhau cho nhiều mục đích khác nhau.

Tiếng hót ngân nga và bay bỏng để thu hút bạn tình hay để liên lạc với đàn. Tiếng hót dồn dập và âm độ mạnh thể hiện sự kích động khi báo hiệu có kẻ thù đến lãnh thổ của bầy đàn. Hoặc tiếng hót “ren rỉ” của những chú én non đòi được ăn.

Màu sắc và tiếng hót
Màu sắc và tiếng hót

3. Môi trường sống của chim én

Chim én sống chủ yếu trong hang, ở vùng núi hoặc vùng khô; chúng sớm thích nghi với đặc tính săn mồi trên không tại các vùng nông thôn thưa thớt cây cối, ít dân cư hay các khu vực gần mặt nước.


Các loài én thường làm tổ bằng bùn gần với phía trên nơi trú ẩn tại các vị trí được bảo vệ tốt trước các thay đổi của thời tiết cũng như trước những động vật ăn thịt. Nhiều loài cư trú trong hang và vách núi làm tổ thành các bầy lớn. Các loài sống thành bầy lớn thường phải tranh đấu với cả vật ký sinh ngoài lẫn sự ký sinh tổ đồng loài. Những con trống già hưởng lợi nhiều nhất từ tập tính bầy đàn, do chúng có thể duy trì các tổ của chính chúng và hưởng lợi từ những cuộc giao phối ngoài cặp đôi thường xuyên xảy ra.

Én/nhạn được coi là loài chim có ích do chúng ăn các loại côn trùng, sâu có hại cho mùa màng, đồng thời én cũng là biểu tượng báo hiệu mùa xuân về hoặc dấu hiệu tốt lành nếu én làm tổ trong khuôn viên nhà. Tuy nhiên hiện én đang bị đe dọa tiêu diệt tại nhiều địa phương tại Việt Nam do hành vi bẫy bắt và ăn thịt. Đây là việc đáng lên án và cần chấm dứt.

Môi trường sống của chim én
Môi trường sống của chim én

4. Đặc điểm tính cách và hành vi của chim én

Chim én là những loài chim bay giỏi và chúng thường sử dụng những kỹ năng bay lượn này để hấp dẫn bạn tình cũng như để bảo vệ lãnh thổ. Nói chung, những con trống sẽ chọn nơi làm tổ và sau đó thu hút con mái bằng tiếng hót và kiểu cách bay lượn, đồng thời là vệ sĩ bảo vệ lãnh thổ của chúng. Kích thước lãnh thổ phụ thuộc vào từng loài; ở các loài sống thành bầy đàn thì lãnh thổ có xu hướng nhỏ, nhưng nó cũng có thể lớn hơn nhiều so với lãnh thổ của các loài sống đơn độc.

Chim én dành phần lớn thời gian sống của mình để bay lượn trên bầu trời trong điều kiện cuộc sống bầy đàn hoặc riêng lẻ đơn độc tùy ý; còn lại, chim én chỉ đáp đất khi chúng đến mùa sinh nở.

Sắp đến mùa lạnh, những con chim én sẽ lặng lẽ rời khỏi nơi cư trú của mình để tránh rét, và sẽ rủ nhau quay trở lại chính nơi này vào mùa xuân; tuy nhiên, chúng ít khi bay theo đàn.

Chim én chung thủy, chúng lựa chọn bạn đời theo kiểu”một vợ một chồng”, thường sống cạnh khu vực sinh sản khi không di cú, và quay trở về chính nơi này sau đó để làm tổ mới và sinh sản.

Đặc điểm tính cách và hành vi của chim én
Đặc điểm tính cách và hành vi của chim én

5. Đặc điểm hình dáng chim én

Các loài chim én đã thích nghi với cuộc sống săn bắt sâu bọ khi đang bay nhờ phát triển một thân hình thuôn và thanh mảnh với các cánh dài và nhọn đầu cánh, cho phép chúng có sự linh hoạt và sự chịu đựng lớn.

Chim én có thân hình bé nhỏ, cơ thể thấp lùn nhưng chắc mập với mỏ ngắn, mềm; quai hàm khỏe, miệng rộng
Các cánh dài, hẹp và nhọn đầu với 9 lông bay chính. Đuôi dài, xẻ thùy sâu, hơi lõm xuống hoặc hơi vuông có hình chạc với 12 lông chính. Con mái có đuôi dài hơn con trống.

Chân ngắn, dùng vào việc đậu trên cành hay dây điện, ít khi dùng để đi. Lông có màu lam sẫm hay lục bóng ở phần trên, đơn giản hay có sọc ở phần dưới, thường có màu trắng hay hung. Lông đuôi dài, độ dài của lông đuôi lớp ngoài dài hơn.

Một chim én trưởng thành có chiều dài cơ thể vào khoảng 10 – 24 cm và nặng khoảng 40 – 184 g. Chim non mới nở không có lông và mắt vẫn nhắm. Những chim non đã đủ lông thường giống như là phiên bản xám xịt hơn của chim trưởng thành.

Đặc điểm hình dáng chim én
Đặc điểm hình dáng chim én

6. Thức ăn của chim én

Chim én thích nghi với cuộc sống lượn lờ và săn mồi trên không tại những khu thưa dân cư và cây cối, hoặc sẽ lượn trên mặt nước.

Ăn côn trùng nhỏ như ruồi, muỗi, sâu, rệp, bọ cánh cứng, châu chấu, nhện,…khi đang bay dạo lượn lờ, hoặc đậu trên mặt đất và cành cây để săn côn trùng. Chúng chính là những hiệp sĩ bảo vệ mùa màng khỏi bọn sâu bọ phá phách cho dân làng.

Vì thế, đối với những người nông dân, việc chim én làm tổ trong khuôn viên nhà chính là một dấu hiệu tốt lành, cũng chính là dấu hiệu tươi mới của mùa xuân đang đến. Nhưng thật đáng chê trách trước hành vi săn bắn, bẫy lồng én để ăn thịt tại một vài vùng miền Việt Nam, làm số lượng chim giảm mạnh.

Đây là một hành vi cần phải được ngăn chặn và sửa đổi ngay.

Thức ăn của chim én
Thức ăn của chim én

7. Đặc tính sinh sản của chim én

Các cặp bạn đời là dạng một vợ một chồng, và các cặp của các loài không di trú thường sống cạnh khu vực sinh sản của chúng quanh năm, mặc dù khu vực làm tổ phụ thuộc nhiều vào mùa sinh sản. Các loài di trú mỗi năm thường trở về cùng một khu vực sinh sản và có thể chọn cùng một khu vực làm tổ nếu như trước đó chúng đã thành công tại vị trí đó. Những cặp chim sinh đẻ lần đầu nói chung chọn khu vực làm tổ gần với nơi chúng sinh ra và lớn lên.

Chim én thường làm tổ trong hang, trong các tòa nhà cũ, tòa tháp hay những công trình do con người tạo ra. Tổ của chúng thường được làm bằng bùn, sình, đất sét hay cây cỏ. Vào mùa sinh sản, những con trống sẽ chọn nơi làm tổ và dùng tiếng hót cũng như kiểu cách bay lượn đặc biệt của mình để thu hút bạn tình.

Chim én cái đẻ trứng và chỉ đẻ khoảng 1-6 quả/ lần. Trứng chim én có màu trắng, thường sẽ nở sau 19 – 23 ngày ấp. Những con non mới nở sẽ không có lông và mắt của chúng luôn nhắm chặt.

Lúc này, cả chim én bố và chim én mẹ đều cùng nhau chăm sóc con non; chúng sẽ tha những quả bóng thức ăn gồm 300 – 1.000 con côn trùng về và bón cho con. Chim non sẽ đủ lông và rời tổ sau 6 – 10 tuần tuổi; khi bay đi, chúng sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.

Đặc tính sinh sản của chim én
Đặc tính sinh sản của chim én

8. Chim én có nuôi được không?

Với đặc tính dành phần lớn thời gian để sống và bay lượn trên bầu trời, én là loài chim thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không. Thức ăn của chúng là các loài rệp, bọ cánh cứng, ruồi, muỗi, nhện và các loại sâu bọ phá hoại. Vì vậy chúng được xem là các loài thiên địch rất có lợi cho con người, giúp bảo vệ mùa màng, hạn chế sâu và cá loại dịch bệnh.

Vì vậy cũng như chim yến, chim én không thích hợp với môi trường nuôi nhốt. Chúng hợp với không gian thoáng đạt và chỉ săn mồi trong lúc bay. Hơn nữa, én là loài chim di cư nên chúng buộc phải sống trong môi trường tự nhiên để sẵn sàng thay đổi điều kiện sống mỗi khi có những sự thay đổi về khí hậu, nhiệt độ.

Hiện nay số lượng loài chim én đang bị ảnh hưởng. Kẻ thù của chúng là chim ưng, chim cắt, một số loài cú. Tuy nhiên kẻ thù nguy hiểm và có sức tận diệt nhất chính là con người. Rất nhiều người săn bắt chim để bán như một món đặc sản.

Không ít những lồng chim én, chim trời được con người rao bán với số tiền khá rẻ mạt, nhưng hậu quả của hành động này hết sức khủng khiếp.

Chim én suy giảm số lượng làm mất cân bằng sinh thái, mất đi một lượng lớn thiên địch tự nhiên có thể làm bùng phát sâu bệnh, phá hủy mùa màng, ảnh hưởng tới mọi mặt của sản xuất nông nghiệp. Con người sẽ càng phải sử dụng thuốc hóa học nhiều hơn, vì vậy môi trường ngày càng bị ô nhiễm và tàn phá nghiêm trọng.

Chim én có nuôi được không?
Chim én có nuôi được không?

9. Phân biệt chim én và yến

Chim én và chim yến, đây là 2 loài chim có rất nhiều tương đồng. Điều này khiến cho rất nhiều người nhầm lẫn giữa 2 loại chim này.

Dưới đây là 1 vài điểm khác biệt giữa 2 loài chim này:

Đặc điểm hình dáng:

  • Chim én:
    • Nhìn bề ngoài, các bạn có thể thấy bộ lông của chúng có màu đen hoặc màu xanh đen óng ánh. Mỏ của chim én thường to hơn mỏ của chim yến.
    • Chân của chim én nhỏ nhưng rất chắc khỏe. Chân của chim én thường có 3 ngón nhỏ trước và 1 ngón nhỏ sau – điều này giúp chúng có thể bám chặt hơn.
    • Chim én bay thấp hơn so với chim yến. Chim én thường có phần đuôi thường chẻ sâu.
  • Chim yến:
    • Nhìn vào hình dáng, có thể thấy màu lông của chim yến thường có màu đen đậm, mỏ của chúng nhỏ hơn rất nhiều so với chim én.
    • Chim yến có phần chân khá yếu, chúng không thể đậu và bám chắc vào các vật thể. Chúng có khả năng vừa bay và vừa bắt con mồi một cách dễ dàng.

Môi trường sống:

  • Chim én: tổ của chim én thường được tạo ra từ bùn đất và cỏ cây. Tổ của chim én rất giống với các loài chim thông thường.
  • Chim yến: tổ của chim yến thường được làm từ rêu, các loại cỏ, lông của chúng…. tất cả các nguyên liệu được gắn kết với bằng nước dãi của yến.
Phân biệt chim én và yến
Phân biệt chim én và yến

10. Biểu tượng của Chim Én

Mỗi năm, chim én sẽ có hai lần xuất hiện nhiều nhất đó là khi chúng di cư đi vào mùa đông, và cứ mỗi độ xuân về, chúng lại quay trở về. Vì thế, mỗi khi thấy đàn chim én chao liệng trên bầu trời cũng là báo hiệu cho mùa xuân đến.

Từ xa xưa, chim én đã trở thành thành loài vật mang biểu tượng cho mùa xuân, cho may mắn và ấm no trong tâm trí mọi người, cho mùa màng bội thu. Chúng là một nguồn ngẫu hứng sáng tạo cho các nhà thơ, nhà văn trong mọi thời đại, mang đến sự bình yên trong tâm hồn cho mọi nhà.

Biểu tượng của Chim Én
Biểu tượng của Chim Én

11. Chim én di cư

Chim én sống và làm tổ chính ở các nước phía Bắc bán cầu, xuất hiện ở nước ta nhiều nhất tại Cao Bằng, Lạng Sơn. Mỗi năm, khi thời tiết dần chuyển lạnh, chúng sẽ di cư xuống phía Nam bán cầu cho đến tận châu Úc, để khi mùa xuân đến sẽ quay về nhà tại phía Bắc.

Mỗi năm, chúng có thể bay đường dài 199 558 km. Trung bình, một con trưởng thành có thể bay tổng cộng đến 4,5 triệu km. Đó là một cuộc hành trình dài và rất khắc nghiệt dưới các vùng khí hậu bất thường khi di chuyển từ châu Phi đến châu Âu, gió lạnh khắc nghiệt và những vùng đất thiếu lương thực đã giết chết hàng ngàn con.

Hàng ngàn con chim én khác vẫn có thể sống xót, chúng có thể dừng bay và đi tản bộ ở mặt đất để tìm thức ăn và phục hồi sức lực cho chặn đường tiếp theo.

Có những loài sẽ di trú, nếu chúng không di trú thì sẽ sống tại tổ của mình quanh năm. Còn những loài sau cuộc di trú, sẽ quay về chính khu vực chúng đã làm tổ trước đây (Khu vực sinh sản thành công nhất mà én đã chọn trước đó). Chúng có xu hướng chọn tổ mới ở gần nơi chúng được sinh ra và lớn lên.

Chim én di cư
Chim én di cư

12. Một số thông tin thú vị khác

Một số thông tin thú vị khác về chim én:

  • Chim én nói riêng và họ nhạn nói chung có thói quen chọn bạn tình thông qua chiều dài của đuôi. Chúng có thể ăn, uống, ngủ, thậm chí giao phối trên không trung.
  • Chim én được mệnh danh là loài chim bay nhanh nhất thế giới với tốc độ bay cực đại (khi không mang theo con mồi) đạt khoảng 113 – 185 km/h. Đặc biệt, loài chim này vào mùa xuân thường bay nhanh hơn gấp từ 2 – 6 lần so với mùa thu.
  • Trung bình trong đời, một con chim én trưởng thành bay tổng cộng khoảng 4,5 triệu km, tương đương với 6 chuyến đi lên Mặt Trăng hoặc 100 vòng quanh Trái Đất rồi quay trở lại.
Một số thông tin thú vị khác
Một số thông tin thú vị khác