Thursday, November 30, 2023

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

 




Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây.  Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.  Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.  Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng.  Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”.  Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã được ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này.  Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau:

– Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.
– Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.

Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng.  Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá.  Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm).  Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn.  Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố.  Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định.  Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước

>Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa.  Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn.  Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí.  Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu.  Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2.  Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì.  Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.

Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn.  Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc.  Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt.  Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến.

Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ.  Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt.  Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp.  Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang.  Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử.  Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu.  Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng.  Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân “CọpXám”. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng.  Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng

Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn.  Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn.  Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục.  Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông.  Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết.

Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: “Một là để dễ sai.  Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi.  Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được.  Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy.  Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi.  Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã.  Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.

Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972.  Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ.  Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy.

Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972.  Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau.  Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: “Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn”!

Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương.  Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt.  Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.  Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù.  Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn.  Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc.

Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.

Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang.  Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc.  Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi.  Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh.  Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ.  Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.

Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba.  Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh.  Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.

Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này.  Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng.  Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh.  Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh.

Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh.  Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng.  Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa.  Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.

Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em.  Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không”?  Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn.  Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được.  Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân.  Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em.  Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua”.  Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người.  Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.

Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến.  Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới.  Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh.  Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước.  Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía.  Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình.

Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết thì chết chứ không lùi”.  Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã.  Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.

Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.  Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng.  Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh.  Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn.  Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh.  Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết.  Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm.

Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn.  Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính.  Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.  Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói.  Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng.  Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt.  Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng:”Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi”.  Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.

Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.

Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta.  Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.  Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn.  Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa.  Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ.

Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng.  Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn.  Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình.  Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: “Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao.  Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần.  Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng.  Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra.  Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà.  Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển.  Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn.  Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai.  Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.

Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây.  Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn.  Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử.  Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”.  Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.

Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam.  Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn.  Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa.
Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội không thì ông trả lời như sau:

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi.  Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi.  Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi.  Tôi chiến đấu cho tự do của người dân.  Tôi có công mà không có tội.  Không ai có quyền kết tội tôi.  Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy.  Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi.  Xin đừng bịt mắt.  Đả đảo cộng sản.  Việt Nam muôn năm”.

Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các anh cứ bắn tôi đi.  Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”.  Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn.  Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng.  Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào.  Rồi người ngạo nghễ ra đi.

Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy.  Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.

Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn.  Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc.  Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn.  Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này.  Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào tay chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc.  Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi.  Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.

Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!  Đả Đảo Cộng Sản”!  Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.

Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn.  Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về … và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa … mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.

Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân.  Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người.  Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên.  Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm.  Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.

Phạm Phong Dinh

♪♫ HÃY THẮP CHO NHAU MỘT NGỌN ĐÈN (Nguyễn Đình Toàn) Nam Lộc - HD

Tuesday, November 28, 2023

SỐ ĐẶC BIỆT #24 | Trang Sử Bị Lãng Quên Của "NGƯỜI NÙNG"

Đầu tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, nhận lời mời của Quốc trưởng bảo Đại thành lập nội các mới và làm Thủ tướng, thay Hoàng thân Nguyễn Phước Bửu Lộc. Tham vọng chánh trị của ông thậm chí còn xa và nhiều hơn vậy. Ông muốn xây dựng một chánh thể Cộng Hòa ở miền Nam, do mình làm Tổng thống, loại trừ hoàn toàn tàn dư phong kiến, ảnh hưởng của Bảo Đại và khuynh hướng thân Pháp trên ít nhứt một nửa lãnh thổ Việt Nam. Dù được người Mỹ ủng hộ, ông Diệm cũng không dễ vượt qua những rào cản nhiều mặt để đạt mục đích, nhứt là khi ông không hề có lấy một đơn vị quân đội nào hậu thuẫn. Quân đội Quốc gia Việt Nam vốn nằm trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Pháp xây dựng và đào tạo, huấn luyện đương nhiên chỉ trung thành với Quốc trưởng, không ủng hộ tân Thủ tướng trước sau vẫn bộc lộ tinh thần chống Pháp. Quân đội các giáo phái (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài...) vì các vấn đề sâu xa của địa phương miền Nam mà ra sức ngăn cản mục tiêu thống nhứt quân đội Quốc gia, xây dựng nền Cộng Hòa của Thủ tướng người gốc Bắc - Ngô Đình Diệm.
 
Đại Tá Vòng A Sáng

Sanh ngày 19 tháng 3 năm 1902 tại làng Tân Mai, Quận Hà Cội, Tỉnh Hải Ninh;

- Năm 1914: học viên Trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo, Tỉnh Quảng Yên, tốt nghiệp năm 1920. Gia nhập quân đội Pháp và thăng cấp Thượng Sĩ năm 1931;

- Năm 1932 được chỉ định theo học trường sĩ quan Fréjus, Pháp; tốt nghiệp năm 1935 với cấp bậc Thiếu Úy;

- Năm 1940 thăng cấp Trung Úy;

- Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đải chính lật đổ Pháp trị tại Đông Dương, Trung Úy Vòng A Sáng và một nhóm người Nùng gia nhập đơn vị Pháp rút lui sang Tàu và đóng quân tại Tháp Vạn Đại Sơn nằm giữa Quảng Đông và Quảng Tây;

- Thăng cấp Đại Úy ngày 1 tháng 6 năm 1945;

- Đầu năm 1946, phụ tá cho Trung Tá Pháp Chỉ Huy Trưởng một đơn vị quân sự từ Phong Thanh tiến tới Cô Tô và Văn Hóa, dùng đơn vị đầu cầu này tấn công và tái chiếm tỉnh Hải Ninh tháng 8 năm 1946; ngày 16 tháng 3 năm 1947, đơn vị này tiến tới Mống Cáy.

Ngày 14 tháng 7 năm 1948, Địa Hạt Tự Trị Hải Ninh được thiết lập; trở nên lãnh tụ của Địa Hạt Tự Trị Hải Ninh-Việt Nam ngày 17 tháng 7 năm 1948. Địa Hạt Tự Trị được Quốc Trưởng Bảo Đại chính thức công nhận và được sát nhập vào Hoàn Triều Cương Thổ Miền Bắc Việt Nam.

- Đầu năm 1949, thăng cấp Thiếu Tá;

- Đầu năm 1951, thăng cấp Trung Tá;

- Ngày 1 tháng 8 năm 1954, thăng cấp Đại Tá, được chỉ định Tư Lệnh Vùng Duyên Hải từ Tỉnh Hải Ninh đến Tỉnh Quảng Yên;

- Cuối năm 1956, giải ngũ do đáo hạn tuổi theo cấp bập, một biện pháp của một điều lệ mới ban hành trong quân đội, như thể chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm loại trừ phần tử nghi ngờ thân Pháp;

- Năm 1966, Chủ Tịch, Hiệp Hội Tương Trợ Cao Nguyên Bắc Việt Nam;

- Năm 1966, trúng cử vào Hạ Nghị Viện, tỉnh Bình Thuận, Quốc Hội;

- Năm 1967, trúng cử Nghị Sĩ Quốc Hội; Khối Đoàn Kết Dân Tộc Thiểu Số;

- Năm 1975, chết trên tàu Trường Xuân trong khi chạy trốn cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

(Soạn thảo bởi ông Hoàng Gia Cầu, con thứ nhì của ông Vòng A Sáng). 





1 phần lịch sử Sông Mao 
越南山涯族嘅民族英雄-黃福盛(黃亞生)
Dân tộc Ngái là 1 trong 54 dân tộc tại VN, có bản sắc văn hoá riêng biệt, nhưng do thời thế loạn lạc con cháu của người Ngái thường sống chung với người Hoa nên cũng biết nói thêm tiếng Quảng Đông
Dân tộc Ngái xưa kia có trang phục, văn tự và chữ viết riêng. Dưới đây là tư liệu bài viết tóm tắc về Ông Vòng A Sáng vị anh hùng dân tộc của người Ngái mà ad sưu tầm được, để mọi người cùng xem để hiểu hơn về dân tộc Ngái đã bị lịch sử lãng quên, cái này không bàn chính trị nha các bạn, chỉ là úp mọi người trao đổi kiến thức thôi
Ông Vòng A Sáng, tên chữ là Phúc Thịnh (福盛), thường gọi A Sáng (亞生), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1902 tại Tấn Mài, huyện Hà Cối, tỉnh Hải Ninh (nay là huyện Hải Hà, Tỉnh Quảng Ninh)
Ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo (Quảng Yên) năm 1914, tốt nghiệp năm 1920 và phục vụ trong quân đội Pháp; thăng cấp Thượng Sĩ năm 1931. Thời đó quân sĩ chỉ thăng tới Thượng Sĩ là cao nhất, thuộc hàng hạ sĩ quan cao cấp, muốn lên Thiếu Uý phải tốt nghiệp trường sĩ quan. Năm 1932, Ông nhập học trường sĩ quan Fréjus, phân hiệu Sancier tại Pháp, tốt nghiệp năm 1935 với cấp bậc Thiếu Uý. Ông được thăng cấp Trung Uý năm 1940, Đại Uý (1945), Thiếu Tá (1949), Trung Tá (1951) và Đại Tá (1954). Năm 1956 bị cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) nghi ngờ Ông thân Pháp nên ép Ông giải ngũ trước hạn tuổi
Đại Tá Vòng A Sáng được biết không những như là người sáng lập ra Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh (1947-1953), mà lại còn như sáng lập một sư đoàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà Sư Đoàn 3 Dã Chiến, (1955), tiền thân của Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1959). Ông cũng còn được biết đến như là người đã có công trong việc đưa hơn 30 ngàn người Nùng di cư từ Khu Tự Trị vào Nam năm 1954, khai khẩn vùng đất hoang vu Sông Mao thành nơi an cư lạc nghiệp cho dân di cư. Ông cũng là người sáng lập Hội Tương Tế Thượng Du Bắc Việt Di Cư (1966). Ông còn được biết như là một lãnh tụ đã đấu tranh cho quyền lợi cho mọi dân tộc thiểu số miền Nam Việt Nam trong đó có người Nùng khi trúng cử Nghị Sĩ Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà 1967-1975).
Về sự nghiệp sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh, những cựu quân nhân khu Nùng còn sống rải rác khắp thế giới như ở Pháp (Toulouse), Mỹ, Trung, Việt mà người viết đã gặp đều cho rằng Ông Vòng-A-Sáng đã khôn khéo vận dụng đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Nhân lúc sau khi Nhật đầu hàng quân đội đồng minh, Ông dẫn đại quân từ Phòng Thành, Quảng Tây (Trung Quốc) theo giòng sông Hồng đi thuyền buồm viễn chinh về đóng tại đảo Cô Tô và vùng Vạn Hoa, nơi có địa thế thuận lợi cho việc tái chiếm Móng Cái. Cánh thuyền buồm Trung Hiếu (忠孝) này ngày sau được dùng làm huy hiệu và biểu tượng việc tái chiếm Móng cái và sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh. Nhờ địa thế thuận lợi, đại quân Vòng A Sáng đánh đâu thắng đó. Do thời cuộc nhiễu nhương, dân lành khổ sở, nay có đoàn quân về giải cứu nên trên đường tiến quân có hàng trăm tráng niên gia nhập đoàn quân bách thắng. Nhờ thêm yếu tố nhân hoà này đoàn quân dưới sự lãnh đạo của Đại Uý Vòng A Sáng chẳng bao lâu, chỉ từ tháng 8/1946 đến tháng 7/1947, đã tiến vào Móng cái. Ngày 14/7/1946, Đại Uý Vòng A Sáng thay mặt cho Hội Đồng Quân Chính Hải Ninh tuyên bố thành lập Territoire Autonome Nung tức Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh Bắc Bộ, Đông Dương thuộc Pháp, dưới sự bảo trợ của Toàn Quyền Émile Bollaert.
Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh có Thủ Lĩnh là Đại Uý Vòng A Sáng; Phó Thủ Lĩnh là Trung Uý Linh Quang Viên lấy Móng Cái làm thủ phủ, tiếng Ngái làm ngôn ngữ riêng bên cạnh tiếng Pháp, Trung, và Việt được dùng trong văn thư và giao tế thường nhật .
Khu Tự Trị là một vùng đất sơn thanh thuỷ tú, bãi biển mênh mông gồm có 8 huyện và 1 hải đảo: Moncay (thủ phủ), Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bình Liêu (bao gồm Hoành Mô kéo dài qua Tồng Chống, Tài Lốc vào đến Thập Vạn Đại Sơn, Trung Quốc) , Định Lập, Ba Chẽ, Vạn Hoa và đảo Cô Tô. Khu Tự Trị có các Bộ Công Thương Nghiệp, Nông Ngư Nghiệp, Giáo Dục, Tư Pháp, Quốc Phòng. Diện tích Khu Tự Trị là 4.500km vuông. Dân chúng Khu Tự Trị sống trong cảnh an cư lạc nghiệp. Ngoài tên các huyện, đảo ở trên người Nùng còn hay nhắc đến các địa danh của Khu Tự Trị như: Nà Slố, Pản Pạt, Mả Xề Nều, SlắnCái (Tiên Yên), Hóong Hổi (Hòn Gai), Khẳm Plả (Cẩm Phả), Tồng Lui (Đồng Rui), Chốc Plài Sán, Tắn Mài, Thán Plún Lẻng, Pắc Phống Sềnh, Vòong Mố Lẻng, Tài Vòong Mố Lẻng, Tồng Mố (Hoành Mô), Mả Thàu Sán...
Đặc sắc nhất là Ban Tu Thư Bộ Giáo Dục Khu Tự Trị đã cho biên soạn một cuốn tự điển chữ Ngái 'Nổng Vủn Slu Tèn' (儂文字典) dùng mẫu tự La Tinh phiên âm đọc theo phát âm chữ Việt giọng Bắc, nguyên âm hay phụ âm (đơn hay kép) nào mà không có trong chữ Việt thì sáng chế ra (như 'slu' trong slu tèn ở trên, hay 'plủi lồ' nghĩa là ông béo) và nhiều cuốn sách tập đọc-học thuộc lòng chữ Ngái. Hồi nhỏ, người viết vẫn ê a quyển 'ngải tì thốc Ngái sú' (tạm dịch: chúng ta học tiếng Ngái), trong đó có nhiều chuyện vui cho nhi đồng như 'Slám thẻo chú chày (ba con lợn con), 'Á Zốc cai thai hoi' (Cái hại của thằng Zốc), 'Liòong chạc slệt mả cô tsoong' (hai con rệp đi kiện) v.v...
Dân cư Khu Tự Trị Nùng ngoài một số ít người Kinh, đa số là người (Tsín Lẩu, Ngái, Sán Chỉ, Tày, Thổ, Sán Dìu, Mèo, Hoa) sinh sống lâu đời dọc 2 bên bờ sông Bắc Luân. Đọc tới đây ắt có người đặt câu hỏi rằng:” Tại sao gọi là Khu Tự Trụ Nùng mà không thấy có người Nùng trong số những dân tộc sinh sống tại Khu Tự Trị Nùng? Để trả lời câu hỏi này, người viết phải mở một dấu "Người Nùng hay dân tộc Nùng là từ dùng để gọi chung các dân tộc sinh sống trong Khu Tự Trị Nùng, cũng như Tai là từ dùng để chỉ người Thái,Tày, Thổ, Mèo … dân tộc thiểu số sinh sống trong Khu Tự Trị Thái; hay nói cách khác cũng như từ người Việt Nam dùng để gọi chung dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số (Chàm, Thượng, H'Mong, Vân Kiều, Tày, Hoa ...) cùng sống trên mảnh đất hình cong chữ S vậy.
Công lao đưa người Nùng Khu Tự Trị Hải Ninh di cư vào Nam Việt bắt đầu 1954 Trung-Tá Vòng-A-Sáng thống lĩnh toàn thể Quân Cán chính cùng quyến thuộc và những người muốn đi theo vào Nam. Lúc đầu, đoàn người tạm cư tại Ba Ngòi (Cam Ranh) sau để tiện có nước sinh hoạt đoàn người di cư kéo về sống tập trung quanh sông Ma Ó (tức sông Luỹ, một con sông có nguồn từ trên núi Di Linh đi xuống qua Cà Long, một nhánh chạy về hướng Đông đổ vào hồ Cà Giây, các ngòi từ đó tản ra các vùng Bá Ghe, Tài Slám Cáu xuống Cầu Bom (Sông Mao) rồi ra biển, giòng chính tiếp tục chảy xuống vòng lượn qua Sông Luỹ, Suối Nhuôm, Lương Sơn, Xuân Quang, chảy qua dưới cầu Chợ Lầu, đổ xuống Phan Rí rồi ra biển).
Thị Trấn Sông Mao từ đấy mà thành hình và là thủ phủ của quận Hải Ninh với Quận Đường đặt gần ga Sông Mao, thuộc tỉnh Bình Thuận. Người Nùng ra công khẩn hoang lập ấp, biền tri thủ túc. Qua bao gian khổ, người Nùng đã biến nơi rừng thiêng nước độc này thành ruộng rẫy trù phú
Sông Mao cũng là nơi Đại Tá Vòng A Sáng đưa tiểu đoàn 6 Nùng vào hợp chung lại với các tiểu đoàn 32, 67, 71, 72 và 75 thành sư đoàn 6 Dã Chiến (1/8/1956). Sư đoàn 6 Dã Chiến có một thời gian ngắn mang tên sư đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1/11/1955, sư đoàn 41 Dã Chiến đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến, bộ tư lệnh lúc đầu đóng tại Tấn Mài, trung tâm huấn luyện quân sĩ trải dài dọc theo bờ khu quân sự của đường Tự Do (Thống Nhất bây giờ) với tụ điểm quan trọng nhất nằm ngay ngã 3 hai đường chính của thị trấn Sông Mao: Tự Do-Thống Nhất (đường Nguyễn Văn Trỗi bây giờ). Những người Sông Mao sinh vào khoảng 1954 trở về trước có lẽ còn trong tiềm thức văng vẳng ban ngày tiếng kèn thúc quân vang vang rộn ràng; ban đêm tiếng gõ mõ cốc cốc đều đều, lâu lâu pha lẫn một tiếng khánh từ Quan Âm Miễu vọng lên khắp xóm làng Sông Mao yên tĩnh thời đó.
Năm 1966, Ông được bầu làm Hội Trưởng Hội Thượng Du Bắc Việt Tương Tế. Năm 1967, Ông đắc cử Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà, được bầu giữ chức Chủ Tịch Khối Đoàn Kết Dân Tộc Thiểu Số tại Thượng Nghị Viện. Ở cương vị dân cử này Ông Vòng A Sáng đã đấu tranh giành được nhiều quyền lợi cho đồng bào thiểu số miền Nam lẫn Thượng Du Bắc Việt di cư, nổi bật nhất là về mặt giáo dục và đào tạo. Nhiều sĩ quan, sinh viên đại học các ngành, học sinh Nùng đã được hưởng quyền ưu tiên do quy chế dành cho đồng bào thiểu số. Nhiều đứa trẻ ngơ ngác của những ngày đầu ở Sông Mao, những em học sinh các trường Việt-Nông, Dục Anh, Sông Mao A, Sông Mao B, Đa Minh (Hải Ninh sau này) đã trở thành những sĩ quan QLVNCH
Ông qua đời ngày 2/5/1975 khi cùng gia đình chạy loạn trên chiếc tàu Trường Sơn và thuỷ táng trên biển cả.
Ông Vòng A Sáng lấy vợ họ Liêu, vốn người huyện Bình Liêu, sinh được 11 người con: 8 nam, 3 nữ.
Hoàng Phúc Thịnh (Vòng A Sáng) tiên sinh đã trọn đời vì dân, công đức của Ông đối với người Nùng rất lớn. Ông đã viết lên trang sử oai hùng hiển hách của dân tộc Nùng từ thời Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh đến khi vào Sông Mao.
ps: Nùng( khu tự trị Nùng) ở trong bài này không phải là dt Nùng ngoài Bắc hiện nay. Cám ơn bạn fb Vòng Cá Phừng đã góp bài
 
Lời tựa:
Trong dòng chảy của dân tộc Việt, có những người sống và chết đều lặng lẽ và nhẹ nhàng như một cơn gió, nhưng cơn gió ấy cũng tạo một gợn sóng nhỏ trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Bài rất hay và nhiều thông tin thú vị. Các mem nên đọc
HỒI ỨC SÔNG MAO - CUỘC THIÊN DI CUỐI CÙNG.

Đầu tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, nhận lời mời của Quốc trưởng bảo Đại thành lập nội các mới và làm Thủ tướng, thay Hoàng thân Nguyễn Phước Bửu Lộc. Tham vọng chính trị của ông thậm chí còn xa và nhiều hơn thế. Ông muốn xây dựng một chính thể Cộng Hòa ở miền Nam, do mình làm Tổng thống, loại trừ hoàn toàn tàn dư phong kiến, ảnh hưởng của Bảo Đại và khuynh hướng thân Pháp trên ít nhất một nửa lãnh thổ Việt Nam.

Dù được người Mỹ ủng hộ, ông Diệm cũng không dễ vượt qua những rào cản nhiều mặt để đạt mục đích, nhất là khi ông không hề có lấy một đơn vị quân đội nào hậu thuẫn. Quân đội Quốc gia Việt Nam vốn nằm trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Pháp xây dựng và đào tạo, huấn luyện đương nhiên chỉ trung thành với Quốc trưởng, không ủng hộ tân Thủ tướng trước sau vẫn bộc lộ tinh thần chống Pháp. Quân đội các giáo phái (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài...) vì quyền lợi cục bộ cũng lăm le trở thành kỳ đà cản mũi mục tiêu thống nhất quân đội Quốc gia, xây dựng nền Cộng Hòa của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Nan đề bắt đầu có lời giải khi chỉ nửa tháng sau đó, 8400 tay súng của Binh đoàn Nùng, tức Sư đoàn 6 Sơn cước trong quân đội Liên Hiệp Pháp, tức lực lượng quân đội của Khu tự trị Hải Ninh ở tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh) cùng gia đình họ, gồm tới hơn 30.000 người di cư vào Nam. Họ trở thành lực lượng quân bị đầu tiên hậu thuẫn cho cơ đồ chính trị của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Nhóm thiện chiến nhất của đơn vị này được tách ra, làm nòng cốt hình thành nên Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống, đóng quân ở vị trí mà ngày nay là hai trường Đại học KHXHNV và Đại học Dược, góc ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Lê Duẩn, giao cho Trung tá, sau thăng Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy.

Phần lớn quân số còn lại, từ tháng 8-1954 đã được phiên chế thành Sư đoàn Nùng số 6 và các tiểu đoàn dã chiến số 32, 67, 71, 72, 75. Trong số này, khi chuyển vào Nam, chỉ có Sư đoàn 6 là được giữ nguyên lực lượng quân số người Nùng và người các dân tộc thiểu số từ Đông Bắc Việt chuyển vào. Các tiểu đoàn còn lại đều được chia đôi quân số. Một nửa trở thành nòng cốt để lập nên các binh chủng mới như Biệt kích - Người nhái, Biệt Động Quân, Dù,...v.v. Nửa kia tiếp tục tuyển thêm quân, giữ lại phiên hiệu, quân số đủ cho cấp tiểu đoàn. Ngày 1-8-1956, tại sông Mao, Bình Thuận, tiểu đoàn 6 Nùng hợp nhất với 5 tiểu đoàn kia, hình thành nên sư đoàn 6 Dã Chiến. Một thời gian ngắn sau đó, nó mang tên Sư Đoàn 41 Dã chiến, rồi Sư đoàn 3 Dã chiến. Khi lực lượng binh sĩ Nùng cũ đã hết tuổi phục vụ, giải ngũ hết, Sư đoàn toàn lính mới này được đổi phiên hiệu, trở thành Sư đoàn 5 BB. Thời điểm đảo chính lật đổ anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1-11-1963), Sư 5 BB vẫn do ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Đệ nhị Cộng Hòa sau này làm Tư lệnh. Oái oăm tahy, đây cũng là một trong số những đơn vị quân đội dự phần lật đổ dẫn đến cái chết của anh em ông Diệm. Dù thế nào đi chăng nữa, Sư đoàn 5 BB mà tiền thân là Sư đoàn Nùng vẫn được xem là đơn vị đầu tiên được thành lập và phiên chế cấp Sư đoàn của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Có rất nhiều chuyện để tìm hiểu, để kể, về lực lượng lính Nùng này. Tuy gọi chung là Nùng, song trên thực tế, cư dân của Khu tự trị Hải Ninh, Quảng Yên là một tập hợp đa sắc tộc gồm người Tsín Lẩu, Ngái (người Hakka gốc gác từ khu vực đảo Hải Nam, Trung Quốc), Sán Chỉ, Tày, Thổ, Thái, Mán, Mèo... và cả một số người Kinh được di dân ngược ra Đông Bắc từ thời nhà Nguyễn. Họ giống như những người Di-gan của phương Đông, không Tổ Quốc. Lãnh địa cư trú của họ là dọc theo hai bờ sông Bắc Luân, từ khu vực Hà Cối, Móng Cái chạy đến thị trấn Phòng Thành, Quảng Tây, Trung Quốc. Đây là phần đuôi cuối cùng của khu vực Thập Vạn Đại Sơn hiểm trở trải dài 600 km của Trung Quốc từ Tây Song Bản Nạp (Xishuangbana 西雙版納 giáp biên giới với Myanmar) thuộc tỉnh Vân Nam, qua Quảng Tây, chạm đến Quảng Đông .

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Một số quân Nùng đồn trú đã theo đã theo một Trung tá Pháp và Đại úy Vòng A Sáng (黃亞生, đọc là Woòng A Sáng, Hoàng A Sáng hoặc Hoàng Á Sinh) chạy về làng Tùng Mao (松毛) huyện Malipo (Ma Lật Ba 麻栗坡), Vân Nam, Trung Quốc, cách cửa khẩu Thanh Thủy, Hà Giang của Việt Nam khoảng 15 km lánh nạn. Làng Tùng Mao chính là nơi chôn rau cắt rốn, cố hương của Vòng A Sáng trước khi đời binh nghiệp đưa thân phụ ông và gia đình xuôi về hướng Đông Nam, định cư tại khu vực Móng Cái, Việt Nam.

Khi yên tâm là đã đào thoát hoàn toàn khỏi sự truy đuổi của quân Nhật, Vòng A Sáng và các thủ hạ tâm phúc đã lộn ngược trở lại thị trấn Phòng Thành, tỉnh Quảng Tây, chiêu mộ thêm 300 tay súng gồm hầu hết là chiến binh vô chủ từng phục vụ các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng cát cứ thời Trung Hoa Dân Quốc. Vòng A Sáng đưa họ về Tùng Mao, huấn luyện họ thành một đạo binh riêng. Giữa tháng 10 -1945, đạo binh này tập kết lại Phòng Thành. Hai tháng sau, từ Phòng Thành, đạo quân này chia làm đôi giương cờ Hiếu Nghĩa, dùng thuyền buồm quay lại Việt Nam.

Cánh thứ nhất do trung úy Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy chiếm đảo Cô Tô. Cánh thứ hai do Đại úy Vòng A Sáng chỉ huy, chuẩn úy Phạm Văn Đỗng làm phó đổ bộ tấn công lên Vạn Hoa, lấy đó làm bàn đạp giành lại quyền lực từ tay đám thổ phỉ Việt Cách, Việt Quốc. Đám này được Tưởng Giới Thạch điều sang giải giới vũ khí quân Nhật nhưng đã ở lại cát cứ, không chịu quay về khi xong nhiệm vụ.

Hàng chục trận đánh lớn nhỏ đã diễn ra. Quân Hiếu Nghĩa đánh đâu thắng đó. Khi Pháp trở lại, đạo quân của Vòng A Sáng được công nhận thuộc phiên chế quân đội Pháp, nhận thêm nhiệm vụ đánh quân du kích Việt Minh. Ngày 14-7-1948, Vòng A Sáng tuyên bố thành lập "Territoire Autonome Nung" tức Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh thuộc Pháp, dưới sự bảo trợ của Toàn Quyền Émile Bollaert. Khu tự trị Hải Ninh là phần mỏm cực Đông của Việt Nam nhô ra Vịnh Bắc Bộ, rộng 4500 km2 gồm 9 huyện: Móng Cái, Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bình Liêu, Hoành Mô, Đình Lập, Ba Chẽ, Vạn Hoa. Một năm sau, ngày 17 -7-1949, quy chế tự trị này được Quốc trưởng Bảo Đại công nhận, sau khi đã nhận lời tuyên thệ trung thành với chính phủ Quốc gia Việt Nam của họ.

Dẫn theo hơn 30.000 đồng bào trong khu tự trị vào Nam giúp Ngô Đình Diệm, quan lộ và số phận của Vòng A Sáng đã không hanh thông may mắn như thuộc cấp. Các phó tướng của ông như Nguyễn Văn Vỹ, Phạm Quốc Đỗng, Linh Quang Viên... đều tiến thân rất nhanh trên đường binh nghiệp, sau này đều đeo lon tướng. Riêng ông, vì được lính Nùng, người Nùng di cư coi như lãnh tụ, tuyệt đối nghe lời, ông trở thành cái gai trong mắt chính Ngô Đình Diệm, người đã được ông hậu thuẫn góp phần tạo thế lực để trở thành Tổng thống khai sinh nền Đệ nhất Cộng hòa như tâm nguyện. Hơn nữa, nếu để phiên hiệu Sư đoàn Nùng tồn tại, quyết tâm tiêu diệt giáo phái, thống nhất quân đội Quốc gia của ông Diệm sẽ bị hòai nghi, chỉ trích. Vậy là Sư Đoàn Nùng được hợp nhất với các tiểu đoàn lính người dân tộc thiểu số di cư, đổi trở thành Sư đoàn 6 Dã chiến, vẫn do Vòng A Sáng làm tư lệnh. Nhưng chỉ chưa đầy 5 tháng sau, chức Tư lệnh sư đoàn đã được giao cho Phạm Văn Đỗng. Đại tá Vòng A Sáng đã bị buộc giải ngũ sớm hơn hạn tuổi 2 năm, dứt khoát không cho ông cơ hội lên tướng. Thay vào đó, ông Diệm đã điều ông về làm Phụ tá Tổng trưởng Bộ Dinh Điền dưới quyền Tổng trưởng Bùi Văn Lương. Bất mãn, cựu đại tá Vòng A Sáng chỉ đến Bộ Dinh Điền chào hỏi Tổng trưởng nhưng xin không nhận nhiệm vụ mới. Ông chỉ mê binh nghiệp. Lúc đó, con trai thứ hai của ông, Hoàng Gia Cầu đã đeo lon Trung tá, đã được đặt vào vị trí Tư lệnh phó của sư đoàn 6, đồn trú quanh khu vực sông Mao.

Khi tiền trạm nghiên cứu tìm đất định cư cho người dân Khu tự trị Hải Ninh di cư, Đại tá Hoàng A sáng đã nhắm đến khu vực lưu vực sông Mao, Bình Thuận. Dù đây là vùng đất khô cằn, song với tập quán sơn cước của ông và đồng bào ông, nó có nhiều lợi thế. Lưu vực sông Mao khá rộng, có đủ cả núi, rừng, biển lẫn đồng bằng để khai hoang trồng trọt. Dân cư ở đó hầu như còn thưa thớt, gồm chỉ một số ít người Kinh, người Chăm bản địa khu vực phía Đông và người Raglei ở phía Tây, giáp Di Linh. Trong khi đó, giao thông khá thuận lợi. Cả đường bộ (quốc lộ 1) lẫn đường sắt đều băng ngang qua khu vực. Khoảng cách với Sài Gòn - thủ đô miền Nam - không quá xa mà cũng chẳng quá gần, khỏang 270 km.

Đầu tháng 8-1954, Hoàng A Sáng được thăng đại tá trong quân đội liên hiệp Pháp, được bổ vào chức Tư lệnh vùng Duyên Hải (Commandant de la Zone Maritime), chỉ huy quân sự một khu vực trải dài từ Khu tự trị Hải Ninh đến hết tỉnh Quảng Yên (tức toàn bộ vùng Quảng Ninh ngày nay). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là cùng đội tiền thám đi tìm đất mới ở phương Nam để di chuyển toàn bộ quân lính Nùng và lính các dân tộc thiểu số vào. Với con mắt của dân sơn cước, khu vực Sông Mao của tình Bình Thuận là nơi được chọn. Thời Pháp thuộc, Bình Thuận cũng nổi tiếng là xứ tỵ địa, từng được nhiều sĩ phu, văn nhân, hào sĩ chọn lựa làm chốn dung thân. Người Nùng không tổ quốc của ông cũng không mong gì hơn thế.

Đề xuất của viên đại tá được chính phủ Ngô Đình Diệm chấp thuận. Tháng 9-1954 bắt đầu di dời. Đến cuối tháng 11-1954, từ khu tập kết ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, 30.000 người Nùng đã hoàn tất việc di chuyển ra Sông Mao, đoàn tụ với những chú lính Sư đoàn 6 là anh em, chồng, con...của họ, định cư xây dựng quê hương mới. Khoảng 1 tháng sau, quận tân lập Hải Ninh, tỉnh Bình Thuận ra đời, với Sông Mao là trung tâm, có 4 xã. Khu vực hành chính của quận đóng đối diện với nhà ga xe lửa Sông Mao, cách quốc lộ 1 khoảng 10 km. Đây có thể nói là quận tân lập đầu tiên trong chính sách cải cách điền địa, xây dựng các khu dinh điền, thành lập quận, tỉnh tân lập trên toàn miền Nam của chính quyền Ngô Đình Diệm. Bình Tuy, tỉnh tân lập đầu tiên của miền Nam cũng phải 3 năm sau đó (tháng 11-1957) mới chính thức khai sinh. Tỉnh này khi thành lập chỉ có 80.000 dân, trong khi quận Hải Ninh khi ra đời đã có 30.000 dân di cư, chưa kể một số dân bản địa có sẵn.

Nguyên thủy, con sông được đặt thành địa danh có tên là sông Ma Ó. Trong tiếng Raglei, Ma là rừng, Ó là nước, nguồn nước. Nó còn được gọi là sông Cà Giây. Từ thời Pháp thuộc đến sau này Chữ Ma-ó đánh máy đều không bỏ dấu, viết gần dễ được đọc thành Mao. Trong khi đó, quê cha đất tổ của Tư lệnh Hòang A Sáng lại là làng Tùng Mao trong Thập Vạn Đại Sơn, đọc theo âm Ngái (nghĩa là xa xôi, tản mác) hoặc thổ âm đại tộc Choang là Tsổng - mao, rất gần với Sông Mao trong tiếng Việt. Đã lấy được tên quận tân lập là Hải Ninh, như tên cũ của khu trị miền Đông Bắc thì viên tư lệnh cũng sắn trớn gọi luôn sông Ma Ó thành Sông Mao, biến nó thành một địa danh chính thức. Đó cũng là một cách viên Tư lệnh Sư đoàn dã chiến xuất thân sơn cước nhắc bản thân và đồng bào mình hoài niệm về cố thổ chôn rau cắt rốn.

Bỏ qua những thiên kiến chính trị ưa chia phe và chỉ trích lẫn nhau, phải thừa nhận rằng, Hoàng A Sáng là một viên sĩ quan "tuy xuất thân nhung hàng nhi thủ bất thích quyển" (tuy xuất thân quân đội nhưng tay không rời quyển sách - đoạn văn mô tả danh tướng Phạm Ngũ Lão). Không chỉ thạo binh nghiệp, ông còn giỏi cai trị hành chính. Trong đời, mình ông hai lần lập nên đơn vị hành chính riêng cho đồng bào dân tộc mình và giành quyền tự trị. Cuộc di cư của người Nùng Hải Ninh có thể coi là cuộc thiên di có tổ chức cuối cùng trong thời hiện đại của một nhóm sắc dân trên đất Việt.

Ông có phẩm chất của một thủ lĩnh bộ tộc, có máu cát cứ và có năng lực hoạt động cai trị, chăm lo cho dân khá phi phàm. Về sau, rời quân ngũ, ông vẫn tiếp tục là lãnh tụ tinh thần của người Nùng quận Hải Ninh, từng ứng cử và đắc cử Thượng nghị sĩ trong nền Đệ nhị Cộng hòa.

Thập niên 1960-1970, ở miền Nam có nhà văn Hoàng Ly (tên thật là Đỗ Hồng Nghi, sinh năm 1915) chuyên viết về những anh hùng thảo khấu người Việt, với bối cảnh hành động là khu Thập Vạn Đại Sơn, Trung Quốc hoặc khu trăm nghìn hòn đảo miền biên viễn khu vực Vịnh Bắc Bộ. Nổi tiếng hơn cả là các cuốn Một thời ngang dọc, Lửa hận rừng xanh, Nữ tướng biên thùy, Giặc cái, Giặc Tàu ô... Tất cả đều từng đăng feuilleton hàng năm trời trên tờ Giang Sơn và nhiều tờ báo khác, hình thành nên dòng tiểu thuyết "tân phái võ hiệp Việt Nam", theo cách đánh giá của nhà văn Hoài Anh. Tuy không nói rõ, song hầu như nguyên mẫu các nhân vật võ hiệp trượng nghĩa trong tác phẩm của nhà văn Hoàng Ly đều lấy từ nguyên mẫu đời thường là Đại tá Hoàng A Sáng và các túc hạ của ông khi còn tung hoành trên đất vùng phên dậu. Cả địa danh, bối cảnh cũng là vùng đất, con sông, ngọn núi, cửa bể...mà Hoàng tư lệnh từng ruổi rong suốt thời trai trẻ.

Đáng tiếc, con người lẫy lừng như thế lại bỏ mạng vì cướp biển trên tàu Trường Sơn khi đào thoát sang Đài Loan ngay sau biến cố 30-4-1975. Không một nấm mồ, xác thân ông chìm sâu đáy biển

A Sáng là tên thường gọi. Còn khai sinh, chính danh của ông là Hoàng Phúc Thịnh (黃福盛), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1902. Phả hệ họ Hoàng (Woòng, Vòng) ở Việt Nam chu chuyển năm đời theo vòng Phúc - Gia - Quốc - Tổ - Hữu. Vợ ông gọ Liêu, vốn người huyện Bình Liêu, Quảng Ninh. Ông có 11 người con gồm 8 nam, 3 nữ. Hậu duệ của ông huyện sinh sống chủ yếu tại Sông Mao, Bình Thuận và xã Bàu Hàm, Đồng Nai.

May mắn, tôi phát hiện ra một sinh viên của mình ở lớp TTBC K16, Trường Đại học KHXH&NV TP HCM là cháu gọi ông Hoàng A Sáng bằng cố nội, gọi Trung tá Lầu Cắm Bảo (Lưu Kim Bảo), một phó tướng của ông là cố ngoại. Tên em là Vòng Nhục Cú (Hoàng Như Cô - Cú Meo), đời chữ Hữu, sống ở Bàu Hàm, Đồng Nai. Phát hiện tình cờ đã đốt lên trong Người Của Giang Hồ một niềm say mê tìm hiểu đến kiệt cùng về con người lừng lẫy của một thời. Cô học trò sẽ là cầu nối giúp tôi tiếp cận tư liệu của dòng họ. Tôi muốn mời cô làm đồng sự, đồng tác giả cuốn sách ấp ủ, nhưng vì nhiều lý do, em chưa nhận lời.

Bài viết nhỏ này xem như một đề cương. Để biến nó thành
một cuốn sách tư liệu dày dặn, đầy đủ và chính xác, ngoài những gì đã tìm kiếm và tích lũy được, chắc chắn tác giả còn phải cần tiếp cận, khai thác, tìm hiểu thêm thông tin từ rất nhiều nguồn. Bất luận đang sống ở Việt Nam, Đài Loan, Ma Cao, Đảo Hải Nam hay trên đất Mỹ, tôi cũng mong rằng nếu có tình cờ đọc được bài viết này, hậu duệ của ông Hoàng A Sáng sẽ vui lòng cho tôi biết thông tin để tôi liên lạc, xin phép hỏi chuyện, tìm và đối chiếu tư liệu...

Họ là con cháu của các ông bà: Hoàng Gia Phúc (黃家福), thường gọi là A Sáng, Hoàng Gia Cầu (黃家球), tức Vòng A Nhì, cựu Đại Tá QLVNCH, định cư tại Mỹ; Hoàng Gia Thái (黃家泰); Hoàng Gia Thuyên (黃家銓) cựu Quận Trưởng Cảnh Sát Hải Ninh (Bình Thuận); Hoàng Gia Kỳ (黃家琪), cựu Đại Uý QLVNCH, Nghị Viên Hội Đồng Đô Thành Saigon, hiện định cư tại Mỹ; Hoàng Gia Thuỵ (黃家瑞) Hoàng Gia Hinh (黃家馨), cựu hiệu trưởng Trung Học Trung Dung, Phú Thọ Hoà, Saigon) hiện sống tại Đài Loan; Hoàng Gia Tú(黃家秀) hiện sống ở Hong Kong; Hoàng Gia Trân (黃家珍) ...
Người viết rất mong và xin cảm ơn trước.
1-4-2020.
NGUYỄN HỒNG LAM

Chúc Mừng Chị Trang Thanh Lan, em Vũ Thảo và nhóm Hậu Duệ

 










Sunday, November 26, 2023

Tưởng về Anh NHT

Anh, dáng nét phong trần, lãng tử, vẻ hào hoa. Và…cũng lắm bệnh “ghiền”.
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái gì hay cái đó
Có chăng chừa “…” với chừa trà
(Thơ Trần Tế Xương)
Lính mà! Sao chừa được.
Hôm nay, được tin anh đã đi rồi… Đi xa, không bao giờ trở lại…
Buồn quá! …Đau xót quá!... Nhớ quá!... Không biết nguyện cầu gì! Và viết những gì…? Đành xin trích một đoạn bài (đã viết) để tưởng nhớ về Anh -  Một chiến hửu khả kính… nhớ hoài.
“Gạch Nối” Và Những Điểm Hội Tụ
 
Đại hội 10 NKT diễn ra tại xứ bò rừng (Cowboy Texas), thành phố Dalas Fort Worth, chính thức là ngày thứ bảy 8/6/2013. Dỉ nhiên là ngày chính thức đông vui, trang trọng và rầm rộ. Tuy nhiên, những ngày trước và sau đại hội là những ngày cũng đáng ghi nhớ.
 
Lần này, các anh em từ xa qui về được tụ họp tại hai địa điểm là: Điểm 1 (nhà của Hoàng như Bá) và điểm 2 (nhà của Nguyễn văn Hảo). Những nơi khác là các gia đình thân hữu, các khách sạn rải rác gần xa….
 
Tiệc chia tay bỏ túi: rượu và nàng thơ
 
Ngày thứ hai (10/6), ngày cuối còn lại. Anh em còn ở đỉểm tập trung nhà Hoàng như Bá. Anh em ở lại không đông. Có hai NT Nguyễn hải Triều và Lê văn San, cùng một số anh em quay quần tề tựu. Có em gái NKT Băng Tâm và ca sĩ Thu Tâm - một tài năng vừa ca hát, diễn ngâm và làm thơ - Trước lúc chia tay, thật là một bất ngờ. Niên trưởng đẹp lão, hào hoa Nguyễn hải Triều được giới thiệu. Em gái Băng Tâm thì đã biết rồi. Bây giờ là Thu Tâm, một nhan sắc xế tà mà vẫn còn mặn mà sắc nước. Làm sao khỏi chạnh lòng? Nhớ tiếc chuyện ngày xưa. Thời oanh liệt nay còn đâu? Không! Niên trưởng NHT dù già nhưng mà tâm hồn vẫn trẻ.
 
Thế là một bữa tiệc “bỏ túi” có rượu, có thơ, có nhạc, có người đẹp được cấp tốc thực hiện trước phút chia tay. “Người ơi xin ở đừng về”…
 
Từng ly Martel Gordon Blue do Ngô văn Ty (LLĐB) đem đến khoảng đãi vừa một vòng thì Thu Tâm (theo đề nghị của NT Triều) có nhả ý: các anh ai có bài thơ nào Thu Tâm sẽ ngâm tặng các anh. Cả bàn tiệc khoảng 10 anh em cố moi trí nhớ để tìm. Nhả ý của người đẹp không thể không thực hiện… Và rồi, Nguyễn văn Dẩn (người viết) xin phát pháo đầu tiên. Qua chưa đầy một phút (có lẻ nhờ hứng) nghĩ ra được 4 câu thơ con nhái, vội vã viết để cho nàng xem qua và cất giọng ngâm:
 
            Rượu chưa cạn mà đã thấy say
            Ta say đây, bởi vì ai?
            Vì ta cảm thấy đời tươi đẹp
            Bỏ mọi ưu phiền lẫn đắng cay.
 
Giọng ngâm thơ trong, êm, bềnh bồng như mây như gió – đâu có thua gì Hồ Điệp, Hoàng Oanh? Cả bàn hào hứng vổ tay tán thưởng. NT Triều khoái quá nốc cạn ½ ly gục gặt: Cuộc đời bảy mươi lăm ta chưa phải là già.
 
Anh Hoàng như Bá hứng chí chen vô: “Dẫu đêm nay anh Triều đi cấp cứu, vẫn muôn đời nhớ mãi bóng Thu Tâm” (2 câu thơ). Cả bàn tiệc nâng ly uống cạn. Vổ tay vang dội. Nàng thơ
(Thu Tâm) chẳng chịu yên lại nhã ra 2 câu (nàng nói tôi ghi) để tiếp theo từ 2 câu thơ của anh Bá:
 
            Dẫu đêm nay anh Triều đi cấp cứu
            Vẫn muôn đời nhớ mãi bóng Thu Tâm (HNB)
            Mối tình thơ sẽ sống mãi ngàn năm
            Tình Kỹ Thuật (NKT) sẽ đi vào vĩnh viễn.(Thu Tâm)
 
Tôi vừa chép lại và đưa cho nàng ngâm. Cả bàn tiệc không có ai mà không thích thú. Anh Triều nói: mình già nhưng mà chưa thể chết được – làm sao mà chết được vì cuộc đời còn quá nhiều thú vị. Một đứa chen vô: Niên trưởng cả đời NKT, chiến trận, địch quân chưa làm anh chết. Anh chỉ chết vì ca sĩ.
 
Một số quanh bàn tiệc lời vô, tiếng ra. Cùng nâng ly hào hứng uống rượu. Một lúc sau Thu Tâm đọc cho tôi ghi 4 câu, nàng nói là kính tặng NT Triều. Tôi viết xong đưa cho nàng cất giọng ngâm:
 
            Tuổi anh già, nhưng tim anh còn trẻ
            Vẫn nồng nàn cháy bỏng tuổi đôi mươi
            Bảy mươi lăm chưa phải cuộc đời trôi
            Niềm vui vẫn tràn đầy bên bạn hữu.
 
Trời ơi, nghe mà chết được không niên trưởng? NT Hải Triều uống cạn hết ly rượu và hứa là: vì Thu Tâm, năm tới dự đại hội 11/NKT San Jose nhất định anh sẽ đi và đi sớm mấy ngày. Nguyễn đức Nhữ, Đinh hồng Liêm nói: anh yên tâm, chừng nào đi anh cho biết trước, tụi em sẽ lo cho NT đầy đủ. Anh Triều hứa sẽ báo trước ba ngày. Nguyễn văn Ẩn chen vào: nếu anh đến chổ em thì xin báo trước 5 ngày. Hỏi vì sao? Trả lời: để em lo dọn nhà đi chổ khác để tránh pháo kích. Lại một trận cười.
 
Tiếp theo là: theo như Trần minh Ngà biết được anh Hoàng như Bá còn có khả năng là đàn, viết nhạc  và hát. Yêu cầu được nghe anh hát nhạc của anh. Và Hoàng như Bá vừa đàn vừa hát sáng tác của anh: bài ca “Tình Người Đi Toán”. Tất cả lắng nghe. Nồng nhiệt vổ tay tán thưởng.
 
Bốn câu thơ sau cùng anh Bá vừa nghĩ, viết ra, trao cho tôi viết lại đưa cho Thu Tâm diễn ngâm và kết thúc:
 
            Nghiêng tay rót chén rượu đầy
            Ngày mai còn lại những ngày hôm nay
            Men rượu đắng, hương vị cay
            Nhưng tình lắng đọng còn đầy trong tim
 
Một bàn tiệc bất chợt “bỏ túi”, do anh Nguyễn văn Ty mang rượu đến để tiển đưa. Cũng có thể
nói là một bữa tiệc nhớ đời.
 
Hôm nay, ngồi ghi lại  những dòng này để chuyển đến các anh em mình. NKT có biết bao tình, có biết bao nhiêu là nghĩa. Người chiến sĩ BK vẫn hiên ngang bất khuất, vẫn tình cảm dạt dào. Vẫn trẻ mãi, vẫn tươi vui. Đời đời bất diệt…
 
Tháng 6/13 – Ng. Dân