Sunday, October 30, 2022

Người Bạn Thời Trung Học Đệ Nhị Cấp Những Bài Thơ Kỷ Niệm


 
Người Bạn Thời Trung Học Đệ Nhị Cấp

               Những Bài Thơ Kỷ Niệm (tdp)

 

Thời gian trôi qua nhanh quá! Mới ngày nào đó mà thấm thoát đã hơn nửa thế kỷ, nhưng tôi vẫn không thể nào quên hình ảnh và những kỷ niệm về một người bạn thời trung học Đệ Nhị Cấp. Đó là Nguyễn Phú Tuấn.

 

Niên khoá 1964-1965, Tuấn và tôi cùng học lớp Đệ Tam Trường Trung Học Tư Thục Tân Thạnh trên đường Trần Quang Khải,Tân Định,Quận 1, phía gần đầu đường Hai Bà Trưng. Hiệu Trưởng là Thầy Phan Út.

 

Tân Thạnh là một trường trung học tư thục không lấy gì là nổi tiếng, học phí tương đối rẻ, điều kiện trường lớp cũng trung bình, nếu đem so sánh với các trường tư thục khác trong vùng như: Đông Tây Học Đường, La San Đức Minh, Huỳnh Thị Ngà, Nguyễn Công Trứ, Tân Thịnh (sau đổi thành Les Lauriers), Vạn Hạnh, Văn Hiến, Văn Lang, Việt Nam Học Đường, Vương Gia Cần…

 

Trường nằm trong hẻm số 196 TQK. Học sinh muốn vào trường phải đi ngang qua Bảo Sanh Viện Ngô Liêng do vợ của Thầy Hiệu Trưởng làm chủ. Bên hông trường có một con hẻm nhỏ đi ra được đường Đặng Dung, có một mái che nhỏ là giang san của ban nhạc kèn thổi kèn đám tang và khóc mướn Bắc Hà. Giờ ra chơi học sinh thường kéo nhau ra nghe ban nhạc tập dợt, có lò bún làm bỏ mối cho các chợ Tân Định, Đa Kao, Bà Chiểu và Phú Nhuận. Đối diện với Bảo Sanh Viện Ngô Liêng là chỗ làm bản kẽm tên Cliché Dầu, nhà cho thuê xích lô đạp, cạnh bên là tiệm sửa xe mô tô Chín Kết, rồi tới tiệm giặt ủi Tân Tiến. Nhìn sang bên kia đường là Hãng Gạch Bông và Billards Vân Sơn, kế bên là Trường Tiểu Học Tân Dân Học Đường, bên cạnh một Villa xưa có cây Hoàng Lan già nở những hoa vàng rực rỡ và cho mùi thơm ngào ngạt về đêm.

 

Trong sân trường có một cây Quế trồng đã lâu năm, thân rất to. Vào giờ ra chơi, học sinh thường chạy đến tước vỏ để phá cho vui, vì có bóc vỏ ra được cũng không biết dùng để làm gì? Phải nói là học sinh của lớp Đệ Tam của tôi lúc đó đúng là “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”, tụi tôi quậy phá tưng bừng, hết biết! Học chẳng ra học, hành chẳng ra hành, nói chung là học rất tài tử. Muốn đến trường, muốn vào lớp là cứ tùy tiện như ở nhà, vì tất cả chỉ nghĩ đơn giản lớp Đệ Tam là lớp không phải thi, học sinh coi như lớp này để dưỡng sức, tà tà, không cần chú tâm hay chuyên cần cho lắm! Để dành sức chờ sang năm lên Đệ Nhị chiến đấu, lúc đó học vẫn còn kịp cho kỳ thi Tú Tài Một, miễn sao cứ lo làm tròn nhiệm vụ đóng học phí đầy đủ trước ngày năm Tây mỗi tháng và mỗi khi thầy Giám Thị Ba Già đi điểm danh đầu giờ cố gắng có mặt trong lớp là coi như an toàn trên xa lộ.

 

Trong suốt năm học cố gắng thi đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt với bài vở các môn học có điểm đầy đủ là coi như cuối năm được cấp học bạ, dù trình độ học vấn, hạnh kiểm, đạo đức có bị Giáo Sư phê ra sao trong học bạ cũng không có gì quan trọng và cũng không bao giờ bị ở lại lớp. Khi lên Đệ Nhị coi như đủ điều kiện hợp lệ để nộp đơn thi Tú Tài Một. Nếu thi rớt, mà còn tuổi thì năm sau tiếp tục thi lại, còn nếu thi đậu, không muốn học nữa và thích làm “Quan” thì tình nguyện vô Trường Bộ Binh Thủ Đức, thụ huấn giai đoạn một ba tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quân Sự Quang Trung, rồi chuyển qua Trường Bộ Binh Thủ Đức học giai đoạn hai với tám tuần huấn nhục không thấy trời, trăng, mây, nước. Khi xong giai đoạn này sẽ được gắn con cá vàng lững lờ trên vai và được cho đi phép đặc biệt. Lúc đó tha hồ mà “Sàigòn Thứ Bảy, còn ai mong chờ. Một người Lính trẻ về thăm kinh đô”, bay nhảy, tung tăng khắp phố phường; nếu có người yêu tuổi học trò thì dung dăng, dung dẻ hai trẻ dắt nhau vào tâm sự cho bớt nhớ nhung ở Rex, Đại Nam,Văn Hoa, Casino Saigon..., tiếp đến ngồi kem Mai Hương, Brodard, Givral… ngắm ông đi qua, bà đi lại, để bù lại thời gian khổ cực rèn luyện nơi “Quân trường đổ mồ hôi. Sa trường bớt đổ máu.”

 

Mấy tháng sau tốt nghiệp ra Chuẩn Úy, trên vai sẽ được đeo quai chảo. May mắn, về được các ngành hay đơn vị có chữ “Quân” ở đầu như: Quân Báo, Quân Bưu, Quân Cảnh, Quân Khuyển, Quân Nhạc, Quân Nhu, Quân Tiếp vụ, Quân Vận, Quân Y, Quân Xa… thì tương đối khoẻ một chút! Còn không thì sẽ bết bùn đất hành quân, quanh năm, suốt tháng lặn lội nơi bưng biền ca bài “Anh Đi Chiến Dịch, Biển Mặn, Chiều Biên Khu, Chiều Mưa Biên Giới, Chiều Hành Quân, Chiều Trên Phá Tam Giang, Đồn Vắng Chiều Xuân, Hai Mươi Bốn Giờ Phép, Mười Hai Tháng Anh Đi, Ngày Anh Đi, Rừng Lá Thấp, Trên Bốn Vùng Chiến Thuật, Xuân Này Con Không Về…*

 

Nếu như không muốn chọn con đường binh nghiệp sớm để “Một xanh cỏ, hai đỏ đời” thì tiếp tục học lên lớp Đệ Nhất thi Tú Tài Hai, sau đó tình nguyện vào Võ Bị, Hải Quân, Không Quân, hay lên đại học. Nếu có điều kiện tốt được đi du học thì tương lai sẽ le lói, sáng sủa hơn.

 

Trong giờ học, khi Giáo Sư vừa quay mặt vào bảng viết vài chữ thì ngay sau đó vài con nhạn ngồi bàn cuối nhảy qua cửa sổ để trốn ra ngoài: hút thuốc, lang thang, đi xem xi nê Văn Hoa, Kinh Thành, Moderne, Casino Đa Kao, ASAM, thụt Billards Vân Sơn, chơi đá banh bàn ở quán bà Sáu bán trà Huế trên đường Bà Lê Chân. Hôm nào rủng rỉnh một chút thì cả đám kéo đến ngồi cà phê Văn Hoa vừa uống cà phê, vừa nhà khói thuốc lá hình vòng tròn bay lơ lửng trên ly, vừa nghe nhạc ngoại quốc và ngắm hai chị em TBD & TBH “Bắc Kỳ nho nhỏ và xinh xinh.” Gặp lúc hai cô vui, sà đến bên bàn xã giao hỏi thăm sức khoẻ vài câu, đưa mắt đá lông nheo, cười đờ mi là ngày hôm đó coi như “Chưa có hôm nào uống cà phê tuyệt vời như hôm nay!”, khi ra quầy trả tiền thấy nhẹ nhàng,vui vẻ. Các địa điểm giải trí này đều nằm không xa trường là bao!

 

Các Thầy cảnh cáo, la mắng đám học sinh bê bối hình như có hai lỗ tai cây, nên các Thầy cũng đâm ra chán. Sau đó, mặc kệ mấy em muốn làm gì thì làm, miễn là trong giờ các Thầy dạy, học sinh phải giữ im lặng, đừng đánh lộn, hay gây ra những chuyện đáng tiếc để phải gọi giám thị xuống lớp mời lên văn phòng phân xử là coi như êm.

 

Vào lúc đó có phong trào học sinh làm thơ, viết văn, hát hò nở rộ khắp các trường công lập cũng như tư thục, nào là thi văn đoàn Bông Cỏ May, kia là nhóm thơ  Phượng Tím Buồn, chỗ khác là nhóm văn nghệ Tuổi Hoa Niên, chỗ nọ bút nhóm Tuổi Ô Mai, rồi ban Văn Nghệ Đường Sáng, Tuổi Hồng,Tia Hy Vọng…Nói chung thi văn đoàn, nhóm, ban văn nghệ mọc lên như nấm và rụng như lá mùa Thu. Không biết trong chốn văn đàn đó có em nào về sau này nổi danh như cồn không?

 

Lớp Đệ Tam của tôi cũng bắt chước xuất hiện một nhóm thơ được đặt tên là nhóm “Hoa Cô Đơn” chỉ gồm vỏn vẹn có ba đứa là: Trần Minh Cảnh, Nguyễn Phú Tuấn và tôi. Chúng tôi để tóc dài, tập phì phà, phì phèo điếu thuốc Ruby Queen (giá ba đồng = bốn điếu), gương mặt lúc nào cũng tạo cho mình ra vẻ lập dị, mơ mộng, thẩn thờ và vênh vênh tự đắc. Hàng tuần gặp nhau một lần để phân chia công việc, phân công gửi bài cho các báo đăng, xem ai viết gì? làm gì?đều được phân nhiệm rõ ràng. Chiếc xe đạp cà rịch, cà tàng của tôi, đôi khi chở ba để đi gửi bài cho các báo mà thấy thương cho con ngựa sắt quá mỏng manh, có lần xe bị bể bánh, phải chia nhau vác về nhà, vì các văn nghệ sĩ tài tử “mậu lúi” không có tiền để vá xe.

 

Trần Minh Cảnh và tôi không có gì gọi là xuất sắc hay nổi bật. Riêng, Nguyễn Phú Tuấn có nhiều ưu điểm hơn hai đứa tôi về mọi mặt như: đẹp trai, hát hay, làm thơ giỏi, viết chữ đẹp và nói chuyện rất có duyên. Trong một lần lớp tổ chức cây mùa xuân vào dịp Tết, Tuấn đã làm các Thầy và bạn cùng lớp ngạc nhiên khi nghe Tuấn hát "Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” của nhạc sĩ Tô Vũ và“Gửỉ Gió Cho Mây Ngàn Bay” của nhạc sĩ  Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Giọng ca của Tuấn rất tuyệt vời, điêu luyện như ca sĩ nhà nghề. Tôi tin rằng những học sinh lớp Đệ Tam niên khoá 1964 - 1965 trường Tân Thạnh khó có thể nào quên. Ngoài ra, các ca khúc tiền chiến khác, Tuấn hát cũng được chúng tôi ngưỡng mộ, dù nhạc lý Tuấn hoàn toàn không biết mô tê gì hết!

 

Nhóm Hoa Cô Đơn hoạt động tương đối cũng nổi đình, nổi đám. Ô Chữ, Câu đố, thơ, tùy bút, truyện ngắn được đăng rải rác trên nhiều báo. Riêng, thơ do Nguyễn Phú Tuấn sáng tác được chọn đăng đều trên Nhật Báo Chính Luận của Bác Sĩ Đặng Văn Sung và một vài tuần báo như: Ngôn Luận, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Măng Non...

 

Triều Vũ là bút hiệu mà Nguyễn Phú Tuấn ký trên các bài thơ do Tuấn sáng tác. Thơ của Tuấn thường nói về Đời Lính, ca ngợi những mối tình của em gái ở hậu phương với anh trai nơi tiền tuyến và về cuộc sống di chuyển nay đây, mai đó của người lính chiến phong trần, nhiều khi lỡ đi không kịp về. Lúc đó, Tuấn không hề có khái niệm về quân trường hay quan tâm gì đến chuyện lính tráng, vì Tuấn là con trai duy nhất trong gia đình, nên có đủ điều kiện miễn hoặc hoãn dịch.

 

Khi lên Đệ Nhị thì nhóm Hoa Cô Đơn tự động giải tán, vì chúng tôi không còn học chung và không còn dịp gặp nhau nữa! Sau Tết Mậu Thân năm 1968. Lệnh tổng động viên toàn quốc ban hành. Cảnh được tạm hoãn dịch vì lý do học vấn. Còn Tuấn và tôi cùng gặp nhau ở Quân Trường Thủ Đức. Tôi rất ngạc nhiên và hỏi Tuấn: “Tại sao Tuấn lại có mặt ở đây, vì Tuấn là con trai một, đủ điều kiện để hoãn hay miễn dịch đâu cần phải nhập ngũ?” Tuấn cho biết thích đời sống quân ngũ, thích đi đây, đi đó. Bây giờ, hầu hết các bạn đều lên đường nhập ngũ tòng quân bảo vệ tổ quốc, chẳng lẽ mình ở ngoài với đời sống dân sự cũng thấy áy náy, kỳ kỳ. Thế là Tuấn phải năn nỉ mẹ nhiều lần. Cuối cùng, bà đành phải đau lòng đồng ý cho đứa con trai duy nhất của mình chọn nghiệp binh đao gặp nhiều dữ hơn lành.

 

Tuấn và tôi cùng nhập ngũ khoá 7/68. Tuấn đi Bộ Binh, còn tôi tình nguyện vào Không Quân. Lúc đó Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang không đủ chỗ để huấn luyện và cũng vì nhu cầu cấp bách theo sự bành trướng và phát triển của Quân Chủng, nên Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi chúng tôi gồm 260 khoá sinh Không Phi hành và Phi Hành học giai đoạn một ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và giai đoạn hai ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn Úy. 

 

Những ngày còn thụ huấn ở quân trường, hai đứa chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Khi thì ở Câu Lạc Bộ Minh Nguyệt, lúc ở khu sinh hoạt, hoặc về phép cuối tuần cùng nhau đi uống cà phê Văn Hoa, Hân, Duyên Anh ở Đa Kao, Thu Hương gần Nhà Thờ Tân Định. Cả hai cùng nhắc lại những kỷ niệm lúc học lớp Đệ Tam và hy vọng có dịp sẽ cho tái hoạt động nhóm Hoa Cô Đơn.

 

Thời gian thụ huấn ở quân trường trôi qua rất nhanh. Tháng Tư, năm 1969 là lễ mãn khoá tốt nghiệp ra trường. Sau khi hết hạn mười ngày phép.Tuấn về trình diện Sư Đoàn 7 Bộ Binh, thuộc Trung Đoàn 10, còn tôi trình diện Đại Đội Hành Dinh Không Quân để chờ đi học Anh Văn và đi Mỹ. Chúng tôi chưa có dịp nào gặp lại thì chỉ vài tháng sau, tôi nhận được tin Tuấn tử trận ở chiến trường Mộc Hoá. Sự ra đi vĩnh viễn của Tuấn, để lại nỗi khổ đau vô vàn cho thân mẫu Tuấn, gia đình, bà con và bạn hữu trong đó có tôi.

 

Bạn Tuấn của tôi ra đi quá trẻ ở tuổi hai mươi mốt,

“Kẻ ra đi ươm nhiều ước mộng.

Người ở lại hoài vọng tiếc thương. (không rõ tác giả)

 

Tôi tình cờ đọc được trên mộ bia của một phi công Không Quân Việt Nam Cộng Hoà ở Nghĩa Trang Mạc Đỉnh Chi trước năm 1975. Lúc đó, tôi thường đến thăm mộ cố Trung Úy NHT  là bạn cùng khoá 7/68KQ và rất thân với tôi đang nằm yên nghỉ nơi đây.

 

T.. là cựu học sinh trường Trung Học Công Lập Võ Trường Toản, Sài Gòn. Nhà T.. ở Cư Xá Phú Nhuận, vừa qua Ngã Tư khoảng hai trăm mét, đi ngang Hội Thông Thiên Học gặp đường Nguyễn Huệ phía bên phải. Cư xá nằm đối diện với Sân Golf, đi thêm một chút là Trung Tâm Tiếp Huyết và Bệnh Viện Cộng Hoà. Hai địa danh này hầu như nhiều anh em ta hay viếng thăm, vì nơi đây “PHỞ ĐẶC BIỆT” với giá rất bình dân so với nhiều nơi khác.

 

T.. it nói, tính tình điềm đạm, khiêm nhường  và thường giúp đỡ bạn bè, nên bạn nào cũng mến. Sau khi tốt nghiệp Phi công Trực Thăng ở Hoa Kỳ về nước. T.. được thuyên chuyển ra Phi Đoàn 235 (Sơn Duơng) năm 1972, và vài tháng sau T.. hy sinh trong một phi vụ bảo vệ vùng trời biên trấn. Nơi đây, chỉ đi năm phút đã trở về chốn cũ mà bài hát “Còn Chút Gì Để Nhớ” thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc do ca sĩ Không Quân Sĩ Phú cất giọng hát đã làm nhức nhối, ray rứt những tâm hồn cô đơn sống xa nhà nơi thành phố mưa bụi sương mù Pleiku.

 

Nói đến Pleiku, những ai đã từng đến đây khó có thể quên con đường Hoàng Diệu, khu Chợ Mới, vòng quay Diệp Kính, xóm đạo Đức An, Câu Lạc Bộ Phượng Hoàng hay còn gọi là Vũ Trường Phượng Hoàng, Trường Nữ Trung Học Pleime, Trường Bán Công Phạm Hồng Thái nằm trên đường Trịnh Minh Thế, mà vào giờ tan học các tà áo trắng nữ sinh phất phơ trước gió làm rung động những “Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối” của các chàng lãng tử xa nhà.

 

Pleiku cũng có nhiều quán cà phê dễ thương: Văn, Băng, Thương, Tay Trái... Đặc biệt, cà phê bình dân Dinh Điền nổi tiếng với buổi sáng trời mù sương, dưới cơn mưa bụi lất phất, hai tay bỏ trong túi áo Field Jacket, thả bộ từ từ, chậm rãi ngược lên con dốc nhỏ trên đường Hai Bà Trưng trong khu dinh điền nơi quán toạ lạc. Nghe gió thổi nhè nhẹ,vi vu, hít thở mùi cà phê thoang thoảng, quyện theo gió làm cho những đệ tử trung thành của cà phê cũng phải ngây ngất theo hương vị đặc biệt này. Ngoài ra, cũng phải kể tới quán cơm gà Ngọc Hương với món thịt gà luộc chấm mắm gừng độc đáo. Có thể nói là không có bất cứ quán cơm gà nào khác có thể so sánh bằng! Cũng phải kể thêm cà phê Tuyết ở kế bên, mà các con bà chủ đều có nét lai Đầm giống bà.

 

Các bạn cùng khoá và tôi thỉnh thoảng đến nhà T.. chơi. Dịp này, má T.. thường nấu các món ăn rất ngon cho chúng tôi ăn. Có thể nói bà là một nội trợ khéo, thương con và quý các bạn của con mình. Bà thuê một góc của quán Thanh Vân gần chợ Cây Quéo, nằm trên đường Ngô Tùng Châu và Hoàng Hoa Thám, Gia Định để bán Cơm Tấm. Bà chỉ  bán vào buổi sáng, ròng rã từ năm 1956 đến năm 1990 mới giải nghệ vì đi định cư Hoa Kỳ do con gái lớn bảo lãnh. Hiện Bà đã gần 90 tuổi, còn mạnh khoẻ đang sống với con cháu ở thành phố Dorchester, tiểu bang Massachusetts. Có lẽ Thượng Đế đã đền công xứng đáng cho bà sau những tháng ngày cơ cực, lam lũ nơi quê nhà?

 

Cơm Tấm Bà Út Cây Quéo một thời nổi tiếng với món cơm Bì, Trứng Hột Gà Ốp La, Sườn Nướng  và bánh mì bì trét mỡ hành, chan nước mắm không có đối thủ. Bà dùng loại nước mắm nhĩ đặc biệt, pha với nước dừa xiêm, đường cát trắng tinh, các gia vị được nêm nếm theo công thức gia truyền đặc biệt. Nhiều bạn thân của bà đến nhờ chỉ lại. Bà đều hết lòng hướng dẫn tận tình từ đầu tới cuối hoàn toàn không giấu nghề, nhưng không ai làm nước mắm ngon như bà. Theo tôi, có lẽ trong lúc pha chế, bà đã đặt hết  chữ TÂM trong đó?

 

Ngoài ra, T.. có một cô em tên MD rất Mignon với hai má lúm đồng tiền. Lúc đó, MD đang học Đệ Nhị Trường Nữ Trung Học Trưng Vương, Sài Gòn. Mỗi lần chúng tôi đến nhà thăm T.., em ra mở cửa mời vào nhà với dáng dấp e lệ, thẹn thùng, càng làm tăng thêm vẻ đẹp hồn nhiên. Hình như các bạn của T.. đứa nào, đứa nấy, trong số đó có tôi cũng sẵn sàng tình nguyện xung phong xin được làm em rể của T... Chuyện này T.. luôn luôn tán đồng, ủng hộ, hay nói vô giùm, cũng như xúi bạn bè hãy mạnh dạn, can đảm nhào vô kiếm ăn, bỏ qua rất uổng. Nhưng, tất cả chúng tôi đều trớt quớt vì em gái T.. có số không được làm nàng dâu Không Quân, hoặc em sợ khi nghe hai câu nói: 

 

“Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo.

  Lính nào ba sạo bằng lính Không Quân.”

 

Thôi! đành hẹn lại kiếp sau.

 

Cuối tháng 10, năm 1994. Tôi đang ở New York. Dịp này tôi dành thì giờ ghé thăm bà ở Dorchester, MA. Hôm ấy bà đãi chúng tôi gồm bốn người: cựu Trung Tá BGĐ (A-37),Thiếu Tá STH (UH-1), cựu Trung Uý Quân Cảnh Không Quân VVT (bạn cùng khoá 7/68 KQ) và tôi món Cua Alaska rang me và Gỏi ngó Sen do bà nấu, phải nói là ngon tuyệt vời. Trong lúc ăn, sương sương vài lon Budweiser, tôi lấy can đảm nói với bà “phải chi con được làm “RỂ” của bác thì hay biết mấy!” Bà trả lời ngay “Sao lúc đó con không chịu nói.” Con mà nói là bác gả con gái của bác cho con liền.Trong mấy đứa bạn của con trai bác tới nhà chơi, bác trai và bác đều chấm con là Số Một. Nghe đâu, sau này em lập gia đình với một Giáo Sư dạy Kỹ Thuật ở Đà Nẵng, coi như chắc chắn ôm hai chữ bình an, không sợ làm goá phụ cô đơn, khi tuổi vừa chớm đôi mươi.

 

Còn tôi, có một thời gian lang thang từ Tây Ninh, sang Long Khánh, đến Bù Gia Mập, Bù Xia (Phước Long), rồi tiếp tục đào kinh, đắp nền nhà ở Xã Bình Thành, thuộc Tỉnh Long An, gần biên giới Cambodge. Sau đó mới chịu ký giấy chung thân với một em ở Đa Kao khi tuổi gần bốn bó.Vậy mà, cũng chịu đựng đã hơn ba mươi lăm năm với ba chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Và bây giờ đang nhìn trời hiu quạnh nơi đất khách, quê người ở tuổi Thất Thập Cổ Lai Hy. Tự an ủi trong lòng là mình vẫn còn may mắn nhìn “hoàng hôn trên biển vắng.”

 

 

*** Sau khi Tuấn mất, thỉnh thoảng tôi ghé thăm nhà Tuấn ở một con hẻm nhỏ, ngang hông với Hồ Tắm Cộng Hoà, gần khu ngã tư Bảy Hiền để an ủi thân mẫu Tuấn và đốt vài nén nhang cho bạn tôi. Mỗi lần như thế Bà đều sụt sùi khóc, Bà ôm chầm lấy tôi vì thương nhớ con, làm nước mắt tôi lúc này cũng tự nhiên tuôn trào theo. Lâu lâu có nhiều thời giờ tôi cũng chạy xe Mobylette lên thăm mộ Tuấn ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà.

 

Sau ngày 30 tháng 04, năm 1975, vì hoàn cảnh tôi mất liên lạc với gia đình Tuấn. Đến khi có điều kiện, nhiều lần tôi trở về tìm lại con hẻm nhà Tuấn, nhưng nơi đây bị xoá hẳn, không còn dấu vết gì để lại. Có thể nói là thay đổi hoàn toàn. Bây giờ, những người ở xa từ đâu dọn đến. Họ xây dựng nhà mới nhiều quá! Hỏi thăm bà con ở đây, nhưng không một ai biết một chút gì về con hẻm ngày xưa của bạn tôi.

 

Hôm nay, tình cờ tìm thấy trong trang sách cũ, những bài thơ do Tuấn sáng tác, lúc chúng tôi cùng học chung dưới mái trường Tân Thạnh. Tuấn đã dùng viết với mực đen để viết tặng tôi, nét chữ phóng khoáng rất đẹp, bay bướm, thật sắc bén, dù đã trải qua bao nhiêu năm tháng mà vẫn không phai mờ theo bụi thời gian. Ngẫm lại, mới đó mà đã hơn năm mươi năm. Lòng tôi bùi ngùi, xúc động, tôi vẫn tưởng như đang ngồi dưới mái trường thân yêu, bao nhiêu kỷ niệm thuở học trò đột nhiên lần lượt trở về. Ôi! tuổi hoa niên thật đẹp và sao hồn nhiên quá!

 

Trong thời gian học chung dưới mái trường Tân Thạnh, chúng tôi cũng chơi thân với một người bạn, nhưng anh chàng này không thích ba thứ Văn Chương lẩm cà, lẩm cẩm, chẳng bổ béo làm mất thời giờ vô ích. Mỗi lần gặp mặt chúng tôi anh thường trêu chọc “Thân chào các bạn nhóm Hoa Ngứa Dại của tôi. Cầu chúc các bạn nổi tiếng và thành công trên văn đàn miền Nam, để cho tôi có dịp dựa hơi và hãnh diện một chút.” 

 

Rồi bạn nói thêm như thầm nhắc nhở “Liệu mà lo học nhé!” Năm sau đến lớp thi rồi đó! Lạng quạng là "đơ dèm cùi bắp", hay đeo cánh gà chiên bơ là coi như bế mạc cuộc đời thơ với thẩn. Tuy nhiên, bạn luôn luôn ủng hộ mọi sinh hoạt của chúng tôi. Đó là Nguyễn Tiến Th..

 

Nhà Th.. ở tận chợ Thị Nghè, đến trường bằng phương tiện lô ca chân. Nhìn bộ dáng bên ngoài có vẻ lè phè, nhưng là học sinh giỏi trong lớp. Đi học chỉ vỏn vẹn có hai quyển tập học trò nhét sau túi quần. Vậy mà vẫn ghi chép đầy đủ bài giảng các môn học của các Thầy không sót một chữ nào.

 

Năm 1967, Th.. tình nguyện vào Không Quân, được gửi lên Trường Bộ Binh Thủ Đức học giai đoạn một, thuộc khoá 27. Sau đó ra Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang thụ huấn tiếp giai đoạn hai, thuộc tài khoá SVSQ/KQ/68B, rồi đi du học Hoa Kỳ để được huấn luyện trở thành Phi công lái A-1Skyraider. Tốt nghiệp về nước, đơn vị đầu tiên là Phi Đoàn 514 (Phượng Hoàng) ở Biên Hoà, sau đó thuyên chuyển lên Pleiku thuộc Phi Đoàn 530 (Thái Dương.)

 

Trong một lần biệt phái công tác huấn luyện ở Pleiku để hướng dẫn thực tập Nghênh Cản Giả Tạo bằng máy T2 và T4 cho các Sĩ Quan Điều Không thuộc Đài Kiểm Báo 921, còn có tên là Peacock, tôi ghé cư xá Sĩ Quan độc thân thăm Th..Bạn cho tôi xem cái chốt của chiếc dù mà bạn vừa nhảy dù thoát chết trong một phi vụ vào ngày 27 tháng 05, năm 1972 khi bay yểm trợ cho quân bạn ở một tiền đồn thuộc Tỉnh Kontum đang bị địch bao vây và tấn công dữ dội. Chiếc A-1 do bạn lái từ trên cao nhào xuống bắn Rockets thì bị phòng không địch bắn cháy bên cánh trái, chỗ chứa đạn Đại Bác 20 ly. May mắn, Ơn Trên che chở, nên nhảy dù thoát hiểm và được trực thăng đến Rescue kịp thời. Có thể nói cuộc đời phi công lái khu trục của Th.. rất gian nan, nguy hiểm và có nhiều lần vào sanh, ra tử.

 

Sau này tôi không có dịp gặp lại Th.., chỉ nghe nói bạn bay phi vụ vào sáng ngày 29 tháng 04, năm 1975. Phi tuần gồm hai chiếc A-1 do Thiếu Tá Hồ Ngọc Ấn hướng dẫn và Th.. cất cánh từ Cần Thơ về Sài Gòn để yểm trợ cho đơn vị bạn đang cần tiếp cứu. Trên đường sắp đến mục tiêu thì nghe trên tần số Emergency 243.0 cho biết Tinh Long 7 do Trung Úy Trang Văn Thành làm Trưởng phi cơ bị trúng SA-7 gần phi trường Tân Sơn Nhất. Chiếc phi cơ AC-119K rơi như chiếc cầu lửa khổng lồ từ trên bầu trời xuống đất. Toàn thể phi hành đoàn tử nạn. May mắn, chỉ có một hạ sĩ quan nhảy dù ra được và rơi xuống đất bị trọng thương.

 

Sau phi vụ cuối cùng này, Th.. cùng một số đồng đội cất cánh di tản sang Utapao, Thái Lan ngay sau đó bằng những chiếc A-1 còn khả dụng. Coi như đây là phi vụ chấm dứt cuộc đời bay bổng của Th.. và các chiến hữu lấy gió, mây ngàn và lửa đạn làm bạn đồng hành.

 

Cách đây vài năm, Th.. đọc một loạt bài Tân Định và Đa Kao của tôi trên Cánh Thép và Hội Quán Phi Dũng thấy tên tác giả là tdp, nhưng không dám chắc? Sau đó tôi nhận được Email của Th.. hỏi có phải hồi xưa tôi học trường Tư Thục Tân Thạnh không? Thế là chúng tôi nhận ra nhau sau nhiều năm mất liên lạc.

 

Nhắc đến Th.. để nhớ lại một kỷ niệm. Lúc đó Tuấn, Th.. và tôi thường hay cúp cua hai giờ cuối Sinh Ngữ phụ vào ngày Thứ Sáu. Cả ba kéo đến Đài Phát Thanh Quân Đội ở đường Hồng Thập Tự, dưới chân cầu Thị Nghè để xem thâu thanh chương trình “Quân Nhân Vui Sống” do nữ ca sĩ Tâm Đan phụ trách. Ca sĩ Tâm Đan là chị bà con với Tuấn. 

 

Chương trình này được thâu thanh vào ngày này, sau đó sẽ phát lại vào mỗi chiều Thứ Bảy cuối tuần. Có thể nói, ngoài chương trình Dạ Lan nổi tiếng thì chương trình “Quân Nhân Vui sống” cũng được hầu hết các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cũng như bà con khắp nơi khích lệ và khen ngợi. Thỉnh thoảng, tôi cũng được mời góp giọng hát. Có một lần ca sĩ Tâm Đan xếp cho tôi hát liên khúc “Ngày Anh Đi & Anh Về Với Em” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Tình cờ, Ca Nhạc Sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh đang phục vụ ở phòng chương trình của đài ghé phòng thâu thanh thăm nữ ca sĩ Thanh Thúy đang có mặt ở đây. Khi nghe tôi hát, anh khen “Em hát có nét lắm đó!” Từ đó, tôi xem anh là thần tượng. Anh thường ký tặng cho tôi các nhạc phẩm do anh sáng tác trên ấn bản đặc biệt, giấy trắng láng, chỉ tặng và không bán. Hiện tôi vẫn còn giữ những kỷ niệm quý báu này được đóng bìa cứng, mạ chữ vàng và giữ gìn kỹ lưỡng như một báu vật.

 

Rất tiếc, tôi không có duyên với nghiệp cầm ca, dù rằng tôi là một trong mười thí sinh trúng cách cuộc thi Tuyển Lựa Ca Sĩ do Đài Phát Thanh tổ chức ở rạp Quốc Thanh vào năm 1965. Trong số mười thí sinh năm đó thì chín thí sinh xuất thân từ các lò nhạc có tên tuổi, có tầm vóc như:  LMB, BT, Ban Việt Nhi của Nhạc Sĩ NĐ. Còn tôi thì trưởng thành từ lò bánh cuốn tráng hơi của Bà Thọ là má tôi, hẻm 58, Xóm Giếng,Yên Đổ, Tân Định.

 

Theo tôi được biết, chỉ có Ca Nhạc Sĩ Tấn An, thí sinh đậu thủ khoa là còn theo đuổi sự nghiệp ca hát và sáng tác cho đến năm 1975. Anh Tấn An phục vụ trong Ban Văn Nghệ Cảnh Sát Quốc Gia. Ban đêm anh vừa chơi đàn và hát cho một phòng trà gần Đệ Nhất Khách Sạn,Tân Bình. Còn tôi, thỉnh thoảng đóng góp giọng hát của mình trong các chương trình văn nghệ do đơn vị tổ chức vào dịp Quốc Khánh, tiệc tất niên, kỷ niệm ngày thành lập đơn vị hay giúp vui cho thương bệnh binh ở các Trung Tâm Hồi Lực và Quân Y Viện. 

 

Bây giờ đang ở San José, đôi lúc tôi cũng góp giọng hát đến với các hội đoàn địa phương, tiệc tùng, cưới hỏi, hội ngộ khoá, dù giọng ca của “tài năng già” chưa bao giờ lên, nên không bao giờ xuống đã đến lúc về chiều, mà vẫn còn “Yamahamvui” không biết đến bao giờ mới tắt tiếng?

 

Xin được viết vài hàng để nhớ về một người bạn thuở thiếu thời, nhớ về tuổi hoa niên thơ mộng cắp sách đến trường với nhiều ước mơ tươi đẹp. 

 

Giờ đây, Nguyễn Phú Tuấn đã ở một nơi thật xa. Bạn đã an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng, nơi không có hận thù, chiến tranh hay giai cấp, mọi người đều được đối xử với nhau bình đẳng.

 

Phần chúng tôi thì vé xe đò một chiều đã cầm sẵn trên tay. Tất cả đang cùng nhau xếp hàng đếm một, hai, ba, bốn bước đi về phía trước và chẳng còn bao lâu sẽ gặp lại bạn ở cuối trời, chân mây.

 

Xin hãy chờ đón chúng tôi nhé!

 

Trần Đình Phước 

(San José, California - 26/10/2022) 

Vĩnh Biệt Một Con Đò - Phạm Tín An Ninh -

… những chuyến đò năm ấy đã sang sông
và khách bộ hành đã đi về những vùng đất khác
nhưng suốt đời con sẽ không làm sao quên được
có một thời Cô-Thầy đã nuôi lớn ước mơ con…
(ntb)

Đời một con người đã có biết bao lần cặp bến từ những con đò. Không phải những con đò đưa ta qua những dòng sông mà qua những dòng đời. Mà dòng đời thì thường chia trăm vạn nẻo và lại nghiệt ngã, không êm ả như những dòng sông, nên khi vừa mới xuống bến này ta lại vội vàng đi tìm bến khác, để rồi chẳng có mấy ai còn nghĩ tới con đò, người lái. Đến lúc tuổi xế chiều, khi cuộc đời chỉ còn đợi chờ một lần sang bến cuối, thì ta mới ân hận, tiếc nuối bao nhiêu điều, và nhận ra chính mình cũng từng là một kẻ vong ơn.

Và buồn thay, trong số những kẻ vong ơn đó lại có tôi, người vừa mới ngộ ra được cái điều đáng ân hận ấy.

Gia đình tôi định cư ở Bắc Âu, nhưng có ba cô con gái sang học bên Mỹ, rồi có việc làm nên ở lại Mỹ từ hơn mười lăm năm nay. Vợ chồng tôi cũng đã sang Mỹ nhiều lần thăm bạn, thăm con. Các cháu đều sống ở Cali. Vậy mà mãi đến mùa hè năm rồi tôi mới tìm đến thăm vợ chồng một vị Thầy cũ. Cả hai ông bà đều đã dạy tôi những năm đầu trung học và cũng là những ân nhân đã từng giúp đỡ, cưu mang tôi qua một đoạn đời khốn khó. Gia đình Thầy Cô ở thành phố Covina, gần nơi các con tôi đang ở.

Hôm đến thăm, tôi có hẹn với vợ chồng cô bạn trẻ Cao Liên Hương, đến từ thành phố nhỏ Calgary, tận bên Canada. Cô bạn này cũng là học trò cưng của Thầy Cô lúc trước, học sau tôi vài ba lớp, nhưng sống phải đạo hơn tôi nhiều, vì cô đã đến thăm Thầy Cô một vài lần trước đó. Còn riêng tôi thì đã đến quá muộn màng. Cô giáo nhân từ của chúng tôi không còn nữa. Cô đã qua đời từ hơn năm năm trước. Bây giờ chỉ còn lại mỗi một mình Thầy, tóc trắng phơ, hai bàn tay run rẩy, ngồi trên chiếc xe lăn, nhờ vợ chồng cô con gái đẩy ra phòng khách đón hai đứa học trò xưa, mà chắc chắn Thầy không còn nhớ là ai. Nhưng nghe nói có học trò đến thăm, Thầy vui mừng lắm, luôn nhìn chúng tôi với ánh mắt yêu thương trìu mến và nụ cười đôn hậu, ngồi nghe chúng tôi kể lại những kỷ niệm dưới mái trường xưa, và ca ngợi dáng dấp “tài tử Gary Cooper” của Thầy thời còn trai trẻ. Thầy còn ký tặng chúng tôi cuốn sách của Thầy “Pour écrire correctement Le Francais”. Cuốn sách gối đầu giường của đám học trò chúng tôi thời ấy. Nét bút có yếu đi, run run một chút, nhưng vẫn phảng phất cái dáng vừa nghiêm nghị vừa quý phái của Thầy ngày trước. Đưa tay cầm cuốn sách Thầy cho, tôi thấy lòng lâng lâng, xúc động, vui buồn lẫn lộn, nên nụ cười chưa kịp nở trọn thì nước mắt đã ràn rụa tự lúc nào. Vơ chồng cô con gái hiếu thảo của Thầy sợ Thầy mệt, nên xin phép chúng tôi đưa Thầy vào phòng để Thầy nằm nghỉ. Chúng tôi cùng ra thăm mộ Cô. Cô nằm cô đơn lặng lẽ trong một nghĩa trang rộng lớn yên tĩnh trên ngọn đồi Covina Hills, nhìn xa xa xuống ngôi nhà cũ. Tôi quỳ trước mộ Cô, nước mắt đầm đìa, khi thấy trên thảm cỏ xanh bằng phẳng chỉ có tấm mộ bia lạnh lùng khắc sâu tên Tung Linh Tran Nguyen.

Dù đã hơn 50 năm, qua bao nhiêu thăng trầm, biến đổi, tôi không bao giờ quên cái tên thật đẹp của Cô: Trần Thị Tùng Linh. Có lẽ sau khi sang Mỹ, cô lấy họ của Thầy, “Nhập gia tùy tục” mà cũng cho trọn vẹn thủy chung với một cuộc tình tuyệt đẹp mà Cô Thầy đã mang theo từ lúc mới quen nhau ở tận Hà Thành. Khi Thầy từ Huế còn Cô từ Vinh ra học.

Đúng như lời một anh chị nào đó đã kể cho tôi nghe: Chính tại Hà nội, một thành phố nổi tiếng thanh lịch, và trong lứa tuổi hoa niên tươi đẹp đó, chàng thanh niên xứ Huế, có dáng người dong dỏng cao, nét mặt cương nghị, thông minh, trí thức đã gặp một thiếu nữ cũng thật thanh tú, dịu dàng, nết na, thùy mị, cũng từ thành phố Vinh ra Hà Nội học. Chuyện “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” đã tạo nên một mối tình tuyệt vời trong sáng giữa hai tâm hồn đồng điệu. Rồi sau khi học xong, Cô Tùng Linh đã trở về lại Vinh để mở một trường Tiểu học. Còn chàng trai Nguyễn Bá Mậu thì trở về Huế để trở thành một Giáo sư dạy Pháp Văn tại các trường Trung học Khải Định và Nguyễn Du. Khi hai người được song thân cho phép thành hôn, một đám cưới thật linh đình đã diễn ra taị Huế vào năm 1941.

Năm 1953 Thầy Cô dời vào Nha Trang tiếp tục nghề dạy học. Thầy dạy trường Trung Học công lập Võ Tánh, và một vài trường tư thục. Còn cô, chỉ dạy ở trường trung học Tương Lai.

Đến năm 1958 Thầy Cô thành lập Trung học Tư thục Văn Hóa. Thầy vừa dạy vừa đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng, còn cô thì dạy môn Pháp Văn và Công Dân Giáo Dục.

Năm ấy tôi là một thằng bé nhà quê vừa lên tỉnh học. Thi vào đệ thất trường công lập Võ Tánh bị rớt, với cái tính bốc đồng của một thằng con nít, tôi bèn ghi danh vào học lớp đệ lục trường tư thục Văn Hóa. Trường vừa mới mở ở gần nhà ông chú mà tôi đang trọ học, trên đường Quốc Lộ 1, cách Ty Thông Tin vài trăm mét. Cô giáo Trần Thị Tùng Linh, dạy môn Pháp văn, cũng là giáo sư hướng dẫn lớp tôi. Lúc ấy Cô còn trẻ, vẫn bới tóc, vẫn áo dài tơ lụa màu hoàng yến, vẫn nét đài các của cô con gái quí tộc vùng Vinh ra học ở Hà thành dạo trước.

Ngày xưa ba tôi là thầy giáo dạy trường Pháp Việt. Tôi mồ côi mẹ từ lúc mới lên ba, cho nên ngày nào đi dạy học ba tôi cũng dắt tôi đến lớp giao cho vài anh chị học trò lớn tuổi trông coi và chỉ cho tôi học vài ba chữ tiếng Tây để cho tôi khỏi chạy phá phách lung tung. Những lúc ở nhà, chỉ có hai cha con, Ba tôi cũng thường dạy cho tôi vài câu nói, vài câu hát tiếng Tây. Nhiều lúc ông đùa giỡn với tôi bằng những tràng tiếng Tây mà tôi chẳng hiểu mô tê gi cả. Nhờ vậy mà khi lớn lên, đi học, tôi đã có một mớ vốn liếng tiếng Pháp, dù lộn xộn không trúng trật vào đâu.

Khi mới vào lớp đệ lục, nhờ cái vốn liếng bì bõm ấy mà cuộc đời tôi như diều gặp gió. Và ngọn gió thần diệu đã đưa thằng bé nhà quê bước qua những tự ti, sợ hãi, chính là cô giáo Tùng Linh. Biết tôi mồ côi mẹ, và ba tôi cũng từng là một đồng nghiệp nhưng không may, lỡ vận, Cô đã hết lòng thương mến, nâng đỡ tôi, giới thiệu với phu quân, thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Bá Mậu. Nhờ tình thương của Cô mà tôi càng chăm chỉ học hành để mỗi cuối tháng hân hoan nhận từ tay Cô những Bảng Danh Dự màu đỏ màu xanh, và sung sướng để được nhìn thấy Cô cười. Tôi được hưởng học bổng trong suốt ba năm học. Đến khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, tôi mới chuyển vào trường công lập Võ Tánh, Chính điều này tôi cũng đã phụ lòng Thầy Cô. Khi biết tôi đậu trung học với thứ hạng khá, Thầy Cô tìm thăm, khen ngợi và khuyên tôi nên tiếp tục học ở trường Văn Hóa. Tôi ái ngại, không muốn mang nặng thêm món nợ ơn nghĩa của Cô Thầy.

Từ giã trường Văn Hóa, tôi đã mang theo bao nhiêu ân tình, kỷ niệm với Cô Thầy, bè bạn. Sau này, khi hồi tưởng quãng đời cắp sách đến trường, thời gian tôi ghi nhớ nhất vẫn là ba năm dưới mái trường Văn Hóa. Có lẽ, cái thời còn thơ dại ấy mới đúng nghĩa học trò. Khi vào lớp tam C Võ Tánh, có lẽ học chung với bao nhiêu người đẹp, nên dường như tôi thấy ai cũng bắt đầu muốn làm người lớn, trầm ngâm, ít nói,  không còn nghịch ngợm đùa giỡn nữa.

Mấy năm còn học ở Võ Tánh, vài lần tôi có ghé lại trường Văn Hóa và đến tư gia để thăm viếng Cô Thầy. Nhưng sau khi rời Võ Tánh, rồi vào lính, theo đơn vị rày đây mai đó, tôi không còn có dịp gặp lại Cô Thầy nữa.

Những lúc đóng quân ở những tiền đồn heo hút, hay dừng quân trước các ngôi trường vùng giao chiến, tôi da diết nhớ thời còn đi học, và nhớ đến Thầy Cô, đến từng khuôn mặt bạn bè. Nhất là khi có một vài thằng bạn học cũ vào lính, bất chợt ra trình diện đơn vị tôi, chúng tôi tha hồ ôn lại chuyện xưa, kể lại từng kỷ niệm vui buồn để thấy mình được hồn nhiên trở lại với bao nhiêu bâng khuâng tiếc nhớ trong lòng.

Hồi ấy trong lớp tôi, hầu hết nữ sinh đều thuộc hàng chị. Mà bà chị nào cũng xinh đẹp, nên chỉ mới sau năm đệ tứ là một số đã bước lên xe hoa. Có cả vài cặp vợ chồng học chung trong lớp. Bọn con trai thì tản mác bốn phương trời. Sau này có hai người về đơn vị tôi. Cả hai đều lớn tuổi hơn tôi. Một anh ngày xưa là trưởng lớp, đạo mạo tư cách và học rất giỏi, nhưng không hiểu vỉ sao khi ra đơn vị tôi, anh chỉ là trung sĩ. Hôm ấy, tôi hết sức ngỡ ngàng, khi vị sĩ quan quân số đưa anh đến trình diện. Tôi nhận ra anh ngay, chạy đến ôm lấy anh, trong lúc anh vẫn đứng nghiêm đưa tay chào. Tôi gọi anh bằng anh và xưng em như những ngày còn trong lớp. Dù anh không hề yêu cầu điều gì, tôi xếp cho anh trong ban quân số, làm việc ở hậu cứ. Sau những lần hành quân trở về, chúng tôi lại gặp nhau, bù khú, kể chuyện thầy bạn ngày xưa. Sau này nghe anh tâm tình, tôi mới biết là ngay sau năm đệ tứ anh lấy vợ, có con, nên phải đi làm, không còn tiếp tục học. Hai năm sau, tôi đề nghị và khuyến khích anh theo học khóa sĩ quan đặc biệt. Anh từ chối, nhưng sau đó nể tình tôi, anh nộp đơn, lên đường. Không ngờ chính tôi đã hại anh. Sau khi mãn khóa không được trở về đơn vị cũ, anh được bổ sung cho một đơn vị khác và tử trận chỉ vài tháng sau đó.

Một anh bạn cùng lớp nữa, tính tình rất vui vẻ dễ thương, mà lúc đi học bọn tôi thường chơi chung. Nhà anh ở trên Thành, nên nhiều dịp cuối tuần, tôi đạp xe theo anh về nhà anh chơi. Nhà  có nhiều cây ăn trái và nuôi nhiều loại chim mà tôi rất thích. Anh có ba anh em trai kế nhau, và cũng rất thân nhau. Một điều đặc biệt làm tôi nhớ mãi tên của ba người, bởi chính là ba mẫu tự A, B, C đơn giản. Đang làm Chi khu phó một huyện yên bình của quê nhà Khánh Hòa, nhưng đến năm 1973 chiến trường cao nguyên ác liệt, anh bị đôn quân về đơn vị tôi. Gặp nhau tại thành phố Kontum hoang tàn đổ nát, chỉ uống cà phê một lần ở cái quán nhỏ bên dòng sông Dakbla, rồi chia tay. Sau hơn một tháng làm tiểu đoàn phó, anh lên tạm thay anh tiểu đoàn trưởng bị tử trận. Nhưng chỉ một tuần sau đó anh cũng đã hy sinh. Tôi không được nhìn mặt anh lần cuối, mặc dù tôi đã đến kịp trước khi chiếc trực thăng mang anh về quân y viện Pleiku. Lúc ấy anh đã nằm trong chiếc poncho gói kín. Tôi chỉ còn biết đứng nghiêm, đưa tay lên chào tiễn biệt.

Và hai người bạn ấy cũng là hai người học trò nghèo, học giỏi, được Cô Tùng Linh yêu thương giúp đỡ. Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi vẫn thường nhắc đến Cô với tất cả lòng cảm kích, biết ơn.

Hôm ngồi trước mộ Cô, tôi hình dung đến khuôn mặt hiền từ và nụ cười độ lượng của Cô. Tôi nhớ có lần tôi thấy Cô giận lắm, khi một vài đứa học trò nghịch ngợm, ngồi phía sau bắn cao su vào đám nữ sinh phía trước, trong lúc Cô đang viết bài trên bảng đen. Không ngờ “lạc đạn”, trúng vào phía sau lưng Cô. Cô quay lại, cả lớp im thin thít, bất ngờ Trần Bá Hòa, anh chàng vui tính và nghịch nhất lớp đứng lên gãi đầu: Lần này không phải con đâu Cô. Cô đừng la con tôi nghiệp nghe Cô. Cô mỉm miệng cười, rồi hạ giọng bảo: các em đừng nghịch như vậy nữa, đau lắm nghe. Sau này Trần Bá Hòa vào lính sớm và cũng là người đầu tiên trong lớp bỏ lại bạn bè, vĩnh viễn ra đi. Năm đang học lớp đệ nhị ở Võ Tánh, nghe tin Hòa mất, tôi ghé lại trường Văn Hóa thăm Cô và báo tin buồn này. Cô bàng hoàng xúc động rơm rớm nước mắt. Lòng Cô thật nhận hậu bao la.

Cô Tùng Linh là bóng mát thiên đường cho tuổi thơ của bao đứa học trò chúng tôi ngày ấy. Cô là người lái đò vĩ đại đã đưa chúng tôi qua bao nhiêu bờ bến khi chúng tôi mò mẫm bước lên cuộc đời đầy những bất trắc đợi chờ. Vậy mà bao nhiêu năm, những đứa học trò như tôi không tìm đến thăm Cô, không có mặt bên Cô và tiễn đưa Cô đến nới an nghĩ cuối cùng. Há chẳng phải là một sự vong ơn ?

Nhiều lần tôi tự bào chữa cho mình. Thực ra tôi đã luôn nhớ tới Thầy Cô, nhất là thời gian sau này, khi tha phương nơi đất khách quê người. Nhưng tôi cứ đinh ninh là gia đình Thầy Cô sống ở Nhật Bản, vì tôi nhớ là người con trai lớn của Thầy Cô, anh Nguyễn Bá Vinh đã sang du học bên Nhật từ giữa thập niên 60. Chắc thế nào anh ấy cũng đã bảo lãnh gia đình Thầy Cô sang ấy. Hơn nữa tôi lại định cư ở một nước Bắc Âu xa tít mịt mùng, không tiếp xúc được nhiều bè bạn cũ.

Vì vậy mà tôi không hỏi thăm tin tức Thầy Cô. Cho đến một hôm, cuối năm 2007, tôi bất ngờ nhận được e-mail của một người có tên Nguyễn Bá Tùng Diệp. Chỉ thấy hai chữ Nguyễn Bá thôi là tôi mừng khôn xiết. Tùng Diệp cho biết là đã đọc được một số bài viết của tôi ở đâu đó. Trong đó tôi có nhắc tới Thầy Cô, và biết tôi là em họ của anh Nguyễn Ngọc Du, cũng là một học trò cũ của Thầy và rất thân quen với  gia đình Thầy, nên Diệp hỏi anh Du xin địa chỉ. Nhờ đó mà tôi mới biết được tin tức của Thầy Cô. Và cũng từ đó tôi cảm thấy rất gần gũi thân quen và quí mến Tùng Diệp& Bảo An. Vợ chồng cô con gái hết mực hiếu thảo của Thầy Cô.

Tôi dặn lòng từ nay mỗi lần sang Mỹ, việc trước tiên là đến thăm Thầy và vợ chồng Tùng Diệp.

Nhưng rồi thêm một lần nữa tôi đành thất lễ. Và cũng không còn có cơ hội khác. Tôi mang tội vong ơn khi không những đã không viếng thăm Thầy trong những ngày cuối đời mà cũng không có mặt để tiễn đưa Thầy về miền miên viễn.

Sau một tháng ở Úc Châu cùng với anh em cựu học sinh Võ Tánh, những đồng môn vẫn còn giữ trọn tấm lòng, tổ chức Ra mắt Tập Truyện Ở Cuối Hai Con Đường, gây quỹ giúp Thương Phế Binh trong nước, trở lại Nauy, tôi bị cúm. Có lẽ do thời tiết thay đổi bất ngờ, khi ớ Úc đang mùa hè, còn Nauy thì đang mùa đông băng giá.

Buổi sáng vừa thức dậy, như có điều gì thôi thúc, tôi vội mở máy đọc e-mail. Tôi sững sờ khi đọc vài dòng rất ngắn của vợ chồng Tùng Diệp, báo tin Thầy vừa mới ra đi. Thầy ra đi nhẹ nhàng như sau một giấc ngủ rồi không bao giờ thức dậy. Tôi thẫn thờ, nhìn ra ngoài trời mịt mờ tuyết trắng, mà có cảm giác như trong lòng mình cũng chỉ còn có tuyết trắng mênh mông. Tôi vội vàng thông báo tin buồn trên Diễn Đàn Võ Tánh&Nữ Trung Học và cho nhiều bạn bè, anh chị em ở Mỹ, ở Úc, ở Âu Châu và cả ở Việt Nam, cũng như nhờ đăng lời chia buồn trên một số báo chí mà tôi quen biết. Tôi làm như để được bù đắp một điều gì .

Từ London, anh Trần Đăng Hồng, cựu giáo sư một đại học ở Anh quốc từ trước 75, cũng là môt học sinh kỳ cựu của Thầy ở trường Võ Tánh, lập ngay một trang Tưởng Nhớ Thầy Nguyễn Bá Mậu trên trang web của Quỹ Hoc Bổng Khánh Hòa, với sự đóng góp rất nhanh chóng những bài thơ, bài viết Khóc Thầy của những người học trò, tuổi đã trên sáu, bảy mươi: anh Nguyễn Thanh Ty, Nguyễn Văn Sanh, chị Võ Thị Hoa.. Từ Cali, anh Văn Hùng Đốc báo cho biết, sẽ cùng với những học sinh cũ của Thầy đến viếng Thầy và chia buồn cùng tang quyến, anh Nguyễn Đình Cường điện thoại cho biết anh sẽ đại diện cho những cựu học sinh Võ Tánh đọc bài điếu văn tiễn biệt Thầy.

Tôi thấy lòng dạ xôn xao, nhưng chỉ biết nhờ vợ chồng cô con gái út ở Alhambra, gần thành phố Covina của Thầy, thay mặt tôi, mang vòng hoa đến viếng và thắp hương xin lạy trước linh cửu của Thầy.

Cô con gái gởi cho tôi mấy tấm ảnh qua e-mail. Tôi nhận ra một số người quen trong đám học trò đến viếng. Tôi xúc động nghẹn ngào khi nhìn thấy mấy tấm ảnh của Thày Cô chụp chung lúc còn rất trẻ. Khi ấy Thầy Cô đang là những người lái con đò đưa tôi và đám bạn bè bé nhỏ sang những bờ bến đầu đời. Chính những bến bờ ấy đã mở ra một chân trời và quyết định cả cuộc đời của những đứa học trò, trải qua bao thăng trầm, giờ tóc đã điểm sương, bạc trắng, và tản mát khắp bốn phương trời.

Nhưng cuối cùng, dù có làm gì đi nữa, thì tôi cũng đã không có mặt cùng đám học trò trong Lễ Viếng và An Táng của Thầy. Tôi thấy áy náy và xấu hổ khi nghĩ mình vẫn mãi là kẻ vong ơn. Dẫu biết là Thầy đã sống thọ trên tuổi bách niên và ra đi thanh thản, nhưng tôi vẫn thấy có một khoảng trống bao la cùng nỗi ân hận trong lòng:Tôi đã từng được đưa đến bến bờ để kịp chạy theo những dòng đời với biết bao phong ba trước mặt, nhưng tôi không còn cơ hội nào để nói lời cám ơn với những người lái đò vĩ đại, cho dù chỉ để xin được nói một lời tạ lỗi rất muộn màng.

Phạm Tín An Ninh

Thursday, October 27, 2022

CHUYỆN CỔ TÍCH TRÊN BẾN BÌNH ĐÔNG - NGUYỄN MINH NỮU -

 Năm nào khi về đến Sài Gòn, tôi cũng dành một buổi chạy xe về bến Bình Đông. Lần đầu về vào năm 2000, tôi còn có dịp gặp bác Ba Thanh, khi đó cụ cũng đã gần sát tuổi chín mươi, và Triều là bạn học chung với tôi thời trung học ở trường Nguyễn Bá Tòng. Dần dà những chuyến sau về, cụ Ba Thanh đã mất, cụ bà cũng mất sau đó vài năm, và ngay cả Triều cũng lâm bệnh rồi từ trần năm 2016. Căn nhà cổ kính nằm giữa vườn cây trái bây giờ còn lại gia đình Phiệt (con trai của Triều). Cái liên lạc thân tình của tôi với cả ba thế hệ của gia đình này là một câu chuyện khá dài.

Triều nằm trong nhóm ba đứa thân nhau học chung lớp từ hồi lớp Đệ Nhị (bây giờ là lớp 11) trong đó tôi thì nhà ở gần trường, còn Triều và Mai ở tuốt trong Chợ Lớn. Nhà Mai bên này rạch Lò Gốm gọi là khu Bình Tây, còn Triều nằm bên kia rạch Lò Gốm gọi là bến Bình Đông. Lớp Đệ Nhị mà Triều đã có xe Honda đi học thì là gia đình khá giả lắm. Bến Bình Đông và khu Bình Tây nằm song song với nhau phía cuối kênh Lò Gốm. Bình Tây thì có hãng rượu Bình Tây, sát với khu trung tâm thương mại người Hoa ở Chợ Lớn, có chợ Bình Tây, khu bến xe Chợ Lớn là trung tâm xe chở hành khách về các tỉnh miền Tây. Bến xe Chợ Lớn khác với Xa Cảng Miền Tây ở chỗ Xa Cảng Miền Tây là bến xe khách lớn, chở khách về các tỉnh lỵ như Cần Thơ, Mỹ Tho, Châu Đốc, Rạch Giá, còn bến xe Chợ Lớn đa số là xe nhỏ 16 hoặc 24 chỗ ngồi, nhưng lại chở khách về các địa danh huyện lỵ. Cũng là về miền Tây, nhưng nếu Xa Cảng Miền Tây chở khách về Đồng Tháp là về bến xe tỉnh Đồng Tháp, thì bến xe Chợ Lớn chở khách về thị trấn Hồng Ngự là một huyện của Đồng Tháp chẳng hạn.

Bến Bình Đông nằm song song với bến Lê Quang Liêm của Bình Tây, nhưng nằm về phía bên kia kênh Lò Gốm. Bình Đông nằm giữa hai con kênh, bên này là kênh Lò Gốm và bên kia là kênh Đôi. Cách gọi tên các dòng nước này tùy từng đoạn mà có tên riêng, người ngoài thành phố nghe rất khó hiểu. Thực ra là thế này: Từ sông Sài Gòn có hai nhánh rẽ vào phía Nam, nhánh trên gọi là rạch Bến Nghé, nhánh dưới gọi là kênh Tẻ, hai nhánh sông này gặp nhau và nhập thành một tại cầu Chữ Y, sau đó lại chia thành hai nhánh chạy tiếp về phía Nam, một nhánh gọi là kênh Lò Gốm và một nhánh gọi là kênh Đôi. Kênh Lò Gốm và kênh Đôi nhập vào nhau tại Bình Đông, từ đây dòng kênh Đôi lớn hơn và chảy thẳng ra sông Chợ Đệm. Đoạn đường hai bên kênh Lò Gốm khúc gần hợp lưu này toàn là các chành, các kho. Phía bên Bình Tây là các chành gạo, nông sản; phía bên kia sông là Bình Đông thì đa số các nhà kho lớn chứa phân bón, thuốc trừ sâu và nông cụ.

Bình Tây sầm uất vì sát với khu thị tứ và các chành xuất nhập gạo lúa nông sản thường xuyên mỗi ngày. Còn Bình Đông thì vắng lặng hơn vì mặt tiền đường sát bờ sông dài hàng hai ba cây số đều là những nhà kho lớn, kín cổng cao tường; đằng sau dãy nhà kho đó là khu dân cư, nhưng cũng thưa thớt người. Nhà của Triều là một trong vài chục căn nhà hiếm hoi nằm ở mặt tiền đường, ngôi nhà xây cất theo kiểu cổ, nằm sâu vào trong, bao bọc quanh nhà là vườn cây khá rộng. Nhà Triều trồng rất nhiều mai, từ trước ra sau, bên phải bên trái đếm ra cả mấy trăm cây lớn nhỏ. Đặc biệt ngay cửa chính vào nhà, giữa sân là một cội lão mai khá lớn, đường kính thân có lẽ hơn hai tấc, không mọc thẳng lên cao mà khoảng gần một mét bỗng gãy gập như hình chữ V ngược một đoạn rồi mới lại vươn lên. Chỗ gãy gập đó tạo như một mắt cây, xù xì cổ kính, cùng với các nhánh cành khác mọc ra đan chen nhau thành một hình dáng vừa kỳ dị vừa bắt mắt. Khi tôi tới chơi với Triều lần đầu, cây mai đã cao hơn tôi khá nhiều rồi, sum suê những nhóm nụ xanh tươi khỏe mạnh vào dịp gần tết. 

Triều gốc dân Vĩnh Long, gia đình lập nghiệp ở Sài Gòn mấy đời là do ba của Triều: Bác Ba Thanh làm công chức ở thành phố. Mẹ Triều buôn bán trái cây ở chợ Xóm Củi, gần nhà. Triều là con một, sống với ba má. Triều là dân miền Nam truyền thống, gương mặt bầu bĩnh trắng trẻo lúc nào nhìn cũng có vẻ như sắp cười, tính tình khoáng đạt rộng rãi, không thích bắt lỗi người khác mà chỉ chọc ghẹo gây cười rồi quên đi.

Những ngày cuối tuần, tôi đạp xe xuống nhà Mai, rồi kéo qua nhà Triều chơi, giống như về quê. Ở đó chúng tôi thả diều, qua kênh Đôi lặn hụp dưới sình bắt cá lia thia, bắt cua bắt ốc rồi về nhà Triều mở tiệc liên hoan… không có rượu. Ba của Triều tôi gọi là Bác Ba người tầm thước, khuôn mặt phúc hậu và rất thương con cùng lúc quý bạn của con, chúng tôi được sống như trong gia đình, rất đầm ấm và vui vẻ. Sau trung học, chúng tôi chia tay nhau, mỗi đứa cuộc đời xô đẩy đi một hướng khác nhau. Triều thì học Sư phạm, ra trường đi dạy ở gần nhà. Mai thì làm việc ở Phú Giáo, Bình Dương. Tôi thì phiêu bạt lên tới cao nguyên Ban Mê Thuột. Thế mà khi có dịp về lại Sài Gòn là chạy đi tìm nhau. Lần nào về cũng có cảm giác như trở về nhà, bác Ba gái từ sau nhà chạy ra vồn vã: Chèng ơi, bây về hồi nào? Thằng Mai biết bây về hôn? Ngồi đó đi, tao ra trường kêu thằng Triều về.

Tôi đón vòng tay ôm của bác Ba mà ứa nước mắt vì xúc động. Kệ, lát nó về, kêu nó chi bác, con ở đây tới ngày mai mà.

- Dzậy hả, vậy bây ngồi chơi đó nghe, tao nấu nồi canh chua cho bây nhậu với Ba nó nghe, lóng rày nó quậy lắm, biết uống bia uống rượu với ổng rồi.

Tiếng xe gắn máy chạy vào sân, rồi tiếng Triều la lớn:

- Trời, phải mày không? Đi đâu mất biệt không thấy tăm hơi là sao?

Triều quay lại nói với má:

- Con chở nó qua nhà thằng Mai coi có thằng Mai về không nghe má…

Rồi sau 1975, cuộc sống vượt khỏi suy nghĩ bình thường. Bác Ba Thanh đi học tập ba năm mới về, thân thể mang đủ thứ bệnh mà chẳng biết bệnh gì, chỉ càng ngày càng ốm yếu, đau nhức khắp người. Mai thì lấy vợ ở Phú Giáo và ở lại quê vợ luôn. Tôi về làm công nhân ngay quận 6. Cuộc sống khó khăn từ miếng cơm manh áo nên thời giờ ghé lại thăm nhau cũng ít dần đi. Triều vẫn đi dạy học nhưng vài ba tháng ghé nhà một lần lại thấy thiếu mất cái gì đó. Đầu tiên là cái xe gắn máy chuyển thành xe đạp, tiếp đó bộ bàn ghế gõ phòng khách thay bằng cái bàn mica và mấy cái ghế nhựa, rồi trên bàn thờ trang trọng ngày xưa giờ rất trống trải vì thiếu bộ lư và đôi chân nến bằng đồng… Hình như còn thiếu nhiều thứ nữa mà tôi không nhận biết, nhưng thái độ niềm nở ân cần thì chẳng khác gì xưa.

Cho đến một lần khi tôi qua, cả nhà im ắng một cách kỳ lạ. Tôi đi thẳng vào buồng sau, chỗ bác Ba nằm thì thấy bác Ba gái ngồi trên ghế cạnh giường ôm mặt khóc thút thít, bác Ba trai nằm nhưng cặp mắt vẫn mở, nhìn đăm đắm lên trần nhà.

Triều kéo tay tôi bước ra ngoài.

- Chuyện gì vậy?

Triều thở dài, chỉ vào cây Mai lớn giữa sân:

- Có người tới muốn mua cây mai này với giá bốn chỉ vàng, nhà bây giờ kẹt quá rồi, ba tao bịnh mấy năm nay, giờ má cũng bịnh nữa, nhà không có tiền mà ba tao nhứt quyết không cho bán, ổng nói chờ ổng chết rồi bán. Nhà còn có cái gì khác mà bán để lo bịnh được đâu. Tao tính bán lấy tiền lo thang thuốc rồi mua chiếc xe xích lô tối về đạp thêm kiếm tiền…

Lúc đó tôi nhìn quanh vườn mới thấy vườn xơ xác trống trơn, cây cỏ mọc um tùm, mấy trăm cây mai trồng khắp vườn có lẽ đã được nhổ lên đem bán từ hồi nào… Tôi hỏi Bác có nói tại sao không cho bán không. Triều lắc đầu, ông chỉ nói không là không. Không bán gì hết, chết thì chịu chứ không bán…

Khuôn mặt của Triều quắt queo, xanh mét. Khi tay hai đứa nắm vào nhau, cả hai bàn tay đều lổn nhổn xương, siết vào nhau đau buốt.

Tôi cậy mình như là con cháu ruột thịt, nên đến bên giường cầm tay bác Ba góp ý:

- Bác ơi, một đời ta bằng ba đời nó, nay hoàn cảnh chung ai cũng chật vật, số tiền bốn chỉ lớn lắm, có thể lo cho bịnh tình hai bác mà còn có thể tạo ra việc làm cho Triều kiếm sống nuôi gia đình…

Bác Ba nhìn tôi, nước mắt ứa ra, nói chầm chậm:

- Tao biết bây nghĩ đúng chớ không sai, nhưng cây mai này tuổi đã hơn trăm năm, là di sản từ thời ông nội thằng Triều, đem về đây trồng ngay bữa má thằng Triều sinh ra nó. Còn hơn vậy, tuy trồng ở đó mà có phải của mình đâu, làm người phải coi trọng lời hứa… đợi tao chết rồi bây làm gì đó thì làm…

Giọng bác Ba trầm, buồn nhưng dứt khoát, chỉ là chi tiết “trồng ở đó mà đâu phải của mình” thì tôi không hiểu tại sao mà không dám hỏi. Hôm đó đi về mà lòng nát tan, đau xót thương yêu mà chẳng biết làm sao để chia sẻ với Triều.

Bến Bình Đông từ bao đời nay là nơi cập bến của ghe thuyền miền Tây chở theo hoa kiểng và cây trái. Bên kia sông là bến Bình Tây chuyên về nông sản, lúa gạo. Các loại hoa kiểng chẳng những đổ về Bình Đông dồn dập vào dịp gần Tết, mà thường xuyên suốt năm vẫn có những chuyến ghe lớn chở trái cây đặc sản về cung cấp cho các chợ, cùng lúc hoa kiểng cho các vựa trong thành phố. Các chủ ghe lâu năm khi ghé lại, tạo ra một mối liên lạc thân tình với cư dân trong xóm và nhiều nhà dân trong xóm cũng trở thành nơi tạm chứa các thứ cây kiểng chưa tiêu thụ kịp.

Thời điểm 1980 ở thành phố nơi tôi sống như đang trên một cơn sóng dữ. Cuộc đời mỗi người đều gánh mọi biến động lớn trên một con thuyền nhỏ, biết bao người đã vượt thoát đi, bao người khác đã chìm đắm xuống và biết bao người như tôi, cắn răng chịu đựng, sống mà chỉ biết sống hết hôm nay, ngày mai chưa biết ra sao. Miếng cơm, manh áo, giấc ngủ và sự bình an chỉ biết chắc khi buổi sớm mai còn thức dậy được.

Mấy tháng sau, bất ngờ Triều ghé thăm tôi tại chỗ làm. Lần này nụ cười nó tươi rói, ngồi trên chiếc xe xích lô mới toanh, cười hi hí… Tôi chạy ra mừng rỡ:

- Bác Ba khỏe lại rồi hả?

- Ba má tao khỏe rồi, tao tới báo với mày mấy tháng nữa tao lấy vợ.

Tôi la lên:

- Úy trời, đứa nào ngu quá vậy? Mày quen nó ở đâu?

Triều kéo tôi vào quán cà phê lề đường và kể lại câu chuyện. Câu chuyện của Triều như thế này.

Ông nội của Triều là Chủ sự trong tỉnh, là một hào phú ở huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long. Ông có nhiều con nhưng hợp tánh nhất là người con thứ là ba của Triều, nên cuối đời, ông về sống với vợ chồng con ở tại bến Bình Đông.

Ông thích hoa kiểng và có lòng hào phóng thương người. Hôm người con trai có đứa con đầu là Triều vào dịp sát tết Nguyên Đán, ông thảnh thơi đi dạo bến sông, ghe thuyền tấp nập cập sát mé bờ, ngay trên bờ là các loại hoa kiểng chở lên bày dày đặc. Ông bất ngờ dừng chân ở một khoảng bày toàn là mai, cả mấy chục chậu mai lớn nhỏ, mỗi cây được bọc một bao tải vải bó rễ và đất tưới ẩm. Ông bất chợt nhìn thấy một cây lão mai khá lớn, hoa kép, mỗi hoa chồng lớp mấy chục cánh vàng tươi rực rỡ tuyệt đẹp. Ông đứng ngắm nghía hồi lâu thì một người đàn ông bước ra chào hỏi. Đây là một cặp vợ chồng từ dưới quê Đồng Tháp chở cây từ vườn lên bán. Ông hỏi giá cây mai nhưng mắc quá ông không mua. Cây mai bình thường cũng cao lớn như vậy thì giá chừng hai trăm ngàn, mà cây mai này đòi giá tới ba triệu. Ông hỏi tại sao, người đàn ông lễ phép thưa không phải con thấy bác hỏi ngay cây này mà con nói giá cao, thiệt ra đây là một loại mai đặc biệt mà không chỉ vườn nhà con, nói rộng khắp huyện Lấp Vò của con chỉ có một cây này. Nó là loại Mai Hương, bác chơi hoa nhiều thì bác biết. Hoa mai là loại hoa có sắc mà không có hương, riêng cây này thì bác cứ ngửi thử đi. Bông hoa tỏa ra một mùi hương dìu dịu, không phải hương lài không phải hương lý mà phảng phất như có chút mùi trầm, càng về đêm mùi hương càng đậm cho tới sáng phai nhạt lần. Ba con dặn cái này cần người hữu duyên, phải giá thì bán không thì đem về nên giá nó mới cao như vậy.

Tưởng chỉ chuyện trò như vậy rồi thôi. Ai dè vài bữa sau, trời đã về khuya, ông Chủ Sự đi ngang qua ghe thì nghe tiếng khóc của phụ nữ. Sẵn cảm tình từ lần trò chuyện trước ông ghé qua hỏi thăm. Té ra cặp vợ chồng kia cơm ghe bầu bạn đem cây lên bán có dắt theo hai đứa con khoảng năm tuổi và bảy tuổi. Hồi chiều, do cha mẹ bận rộn bán hàng, hai đứa bé chạy giỡn với nhau sẩy chân lọt sông chết đuối cả hai. Không có thân nhân ở gần, tiền bạc vốn liếng không còn, hai vợ chồng ôm nhau khóc ngất. Bây giờ phải gấp rút về quê vừa đau khổ vừa khó khăn chưa biết tính sao. Ông Chủ Sự suy nghĩ rồi nói thôi để tui mua mão hết mớ cây vợ chồng bậu đem lên để bậu lấy tiền mua quan quách cho sắp nhỏ rồi về quê. Hai vợ chồng cúi đầu cảm tạ và nói giá bán mão hết số cây là hai triệu. Ông Chủ sự nói vậy sao được, nguyên cây Mai Hương đã là giá ba triệu rồi, mà bán mão cả chục cây còn lại có hai triệu là sao, thôi tui đưa bậu năm triệu để lo việc nhà. Hai vợ chồng kéo nhau quỳ xuống cám ơn và thưa rằng cám ơn ông hào phóng giúp người, nhưng thôi như vầy, năm triệu ông đưa coi như con mượn, về quê rồi khi có được sẽ xin đem lên trả, còn nay tất cả mớ cây con giao hết cho ông. Những cây khác thì coi như bỏ, riêng cây Mai Hương xin ông trồng lại chớ đừng bán, khi nào có tiền tụi con đem lên sẽ xin chuộc lại. Ông Chủ sự gật đầu, bậu tính sao cũng được. Rồi ông chỉ tay về phía căn nhà: đó là nhà của tui, chừng nào lên được thì lên.

Đó là lý do vì sao ông Ba Thanh nhất định không cho bán cây mai trước nhà. Triều kể tiếp, khi gia đình đang túng bấn tới độ có bữa ăn rau muống luộc trừ cơm thì bất ngờ có một cô gái tới hỏi thăm phải đây là nhà ông Chủ sự không? Khi biết chắc đúng, cô gái mới kể tiếp cô tên Ơn, là con gái của ông bà Hai Đậu, quê ở Lấp Vò, Đồng Tháp. Hồi ba mươi năm trước, khi cô chưa ra đời, cha mẹ cô làm vườn và bán cây kiểng, có năm chở ghe bán lên bến Bình Đông vào mùa gần tết giống như vầy, bất ngờ gặp tai nạn làm chết hai người anh chị ở bến sông, có được ơn ông Chủ sự ở nhà này giúp đỡ nên mới đem được xác về quê.  Mấy năm sau thì sanh ra cô, nhưng gia đình làm ăn cũng không khá giả. Mới năm rồi người cha từ trần, kể lại cho cô nghe cái ơn khó trả ngày xưa. Nay nhờ được mùa lại thêm bán được mấy công đất, nên mẹ cô đưa địa chỉ sai cô lên đây đền ơn đáp nghĩa ngày xưa.

Mẹ của Triều lúc đó lại nảy sanh căn bệnh đàn bà, đi đứng khó khăn thiếu người giúp đỡ, cô Ơn tự nguyện ở lại ít ngày giúp bà tắm rửa thay đồ. Cô Ơn đưa gia đình số tiền còn nhiều hơn giá bốn chỉ vàng mà còn nhất định không chịu lấy cây Mai Hương về lại dưới quê. Cô nói cây này nó chỉ sống được nhờ người có phước. Nay nó ở đây an lành con lấy nó đi làm chi. Khi thấy má Triều chưa bớt bịnh, cô nhắn tin cho mẹ cô lên thăm, và ở lại sống trong nhà như người thân yêu. Má Triều gần ba tháng sau nhờ có người chăm sóc, nhờ tinh thần thanh thản vui vẻ và nhờ thuốc men chạy chữa đã gần khỏe hẳn. Lâu ngày bên nhau nảy sinh lòng quyến luyến. Có bữa, má Triều mân mê tay cô Ơn, bà nói, phải chi bây ưng thằng Triều thì đời tao có phước quá. Cô Ơn cười mắc cỡ, biết ảnh có ưng con không mà bác hỏi vậy? Triều đang nằm chèo queo ngoài bộ ván ngoài sân, nghe thoáng qua chạy vô cầm tay cô Ơn, thú thiệt tui ưng cô từ khi cô từ ghe bước lên bờ kìa. Cô Ơn cười e thẹn, hai má đỏ hồng.

Ơn tính tình thuần hậu mà lại giỏi giang chuyện mua bán. Khi hai đứa lập gia đình với nhau, Ơn lấy lại cái sạp bán trái cây ở chợ và về quê tạo đầu mối đưa cây trái lên giao hàng bán sỉ cho các chợ trong vùng. Triều ngoài giờ dạy học, thì thành người giao hàng chuyên nghiệp cho vợ, chiếc xe xích lô chuyển thành xe ba bánh phục vụ cho chuyện kinh doanh.

Khi tôi rời Việt Nam vào năm 1995, thì gia đình Triều đã là một gia đình êm ấm, hai bác Ba khỏe mạnh lại, sống nhẹ nhàng thảnh thơi với đứa cháu nội đầu lòng, con của Triều và Ơn.

Lần này về bến Bình Đông, lại đúng gần mùa Tết, trên bến thì tràn ngập hoa tươi đủ loại, dưới bến thì chen khít với nhau ghe bầu, ghe rổi, xuồng chèo, thuyền máy, hàng hàng lớp lớp sát bên nhau như một hội hoa nửa bờ nửa nước. Tôi ghé vào nhà Triều, căn nhà vẫn là kiến trúc cũ, cổ kính và thanh lịch nhưng nay được sơn phết mới, trang trí thêm cửa kính, máy lạnh, sân vườn tráng xi măng, đường đi sạch sẽ, giữa vườn vẫn là cây Mai Hương nay đã cao quá nóc nhà, rực rỡ hoa vàng, tỏa hương thơm ngát. Vợ chồng Phiệt đang xúm xít trang trí bàn thờ quay ra thấy tôi reo lên mừng rỡ… Bác Bảy về rồi… Năm nay đám kỵ ba con có bác Bảy ba con chắc vui lắm… Trên bàn thờ, di ảnh hai bác Ba nhìn xuống cười hiền hòa, lung linh trong ánh nến thắp trên đôi chân đèn sáng loáng, chiếc đỉnh thờ rực rỡ màu đồng, thấp bên dưới là khuôn mặt của Triều cười mím chi y hệt như thời chúng tôi còn trẻ trâu.

Tôi hỏi Phiệt:

- Má mày đâu?

- Má con đi chợ mua đồ làm tiệc chiều nay đãi bạn bè con.

- Ủa có tiệc gì vậy? Tất niên hả?

Phiệt mắc cỡ:

- Dạ… dạ… không… Mừng vợ con có bầu.

Đứng trước hiên nhà, tôi ngước nhìn cây Mai Hương cao lớn tỏa hương dìu dịu mênh mang, Phiệt nói, sau Tết má con dâng cúng cây Mai Hương này vô chùa. Má con nói cây lão mai này đã cho gia đình con hưởng phước đã ba đời rồi, "Phước bất khả hưởng tận", nên muốn để tất cả những người có tâm thiện cùng được hưởng phước như gia đình con.

Tôi quay lại nhìn Phiệt, sửng sốt về câu thâm nho Phiệt nói, không biết nó học được từ đâu. Như vậy, khoảng cuối năm sau nếu tôi còn đủ sức khỏe về thăm nữa, thì tôi có quen biết với cả bốn đời gia đình Triều rồi đó.

Tôi với tay lấy mấy cây nhang, kính cẩn thắp lên trên bàn thờ với lòng thương nhớ và kính yêu thật tràn đầy…

NGUYỄN MINH NỮU

Wednesday, October 26, 2022

Đợi Bình Minh

 

Thân chuyển “Hồi ký Vượt Biên” của Đồng môn của tôi (trường Cao Đẳng Nông Lam Súc Sàigòn) – Bác sĩ Bùi Xuân Cảnh. Lời giới thiệu cũng là lời nhắn viết trong bài của tác giả BXC:

“… Để cho nhiều người biết được sự thật về chuyến tàu định mệnh ấy, có khi giải tỏa được niềm khắc khoải, vì không biết được chuyện gì đã xẩy ra khi thân nhân (của cả trăm người trên tàu) bặt tin từ ngày họ ra đi…

Tôi còn hy vọng những dòng chữ muộn màng này có may mắn lọt vào mắt bạn hữu và thân nhân của anh chị có thân nhân đi trên chuyến tàu này… Chẳng phải vì bài viết có gì hay ho, mà chỉ vì đó là ‘Truyện đã xẩy ra thực’ trên chuyến tàu vượt biện bị nạn và đắm năm 1979…”

-BXC

Cái buồn nhất của câu chuyện vượt biên này là 8 người sống sót (trên số 126 người vượt biên?) đi vào… tù cộng sản (Trại giam Bến Tre); chứ họ chưa hề đặt chân đến được bến bờ tự do…!?”

Dưới chế độ cộng sản, có những nỗi bi thương, xót xa không thể nói ra thành lời.

Trần Văn Giang

*

Đã ba ngày nay, chiếc xà-lan to dềnh dàng này vẫn lang thang quanh quẩn trong những sông rạch vùng Bến Tre, cửa Tiểu, cửa Đại. Nếu có ai bỏ công theo dõi, sẽ thấy chiếc thuyền này như không có nơi để đi tới, không có một bến cảng để hẹn hò. Khi nước lớn, nó xuôi dòng từ phía biển đi vô, khi nước ròng, nó lại lừ đừ trôi về phía biển! Ban đêm, khi bóng tối đầy đe dọa đã phủ trùm cảnh vật và con sông đã trở thành một dải mực đen ngòm, nó táp vào những lùm cây vắng ven bờ, buổi tối náu mình bên tả ngạn, nửa đêm đã thấy núp dưới bóng lá bên hữu ngạn.

 Dưới hầm xà-lan, nơi thường chất đầy các bao lúa, lúc này rộng rinh. Một nhóm người gồm đủ đàn ông, thanh niên, phụ nữ, con nít trong những bộ quần áo lôi thôi, nhem nhuốc, ẩn mình trong các xó kẹt. Cha con tôi cũng lẫn lộn trong đám người đang lo âu, hồi hộp đó. Mới có ba ngày trôi qua mà tôi đã thấy lâu như đã mấy năm! Nhớ lại, mới hôm kia, tôi và bé Giang vẫn còn nằm trong chăn ấm, dưới mái nhà ở Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa.Trời cuối năm Saigon hơi se lạnh. Giang vẫn còn đang ôm lưng mẹ, và tôi cũng ngán ngẩm, chưa bắt đầu một ngày vô định, chờ đợi sự sách nhiễu của tên Lĩnh, Công an khu vực. Chợt có tiếng xe gắn máy ngừng trước cửa nhà, rồi tiếng Hòa lọt qua khe cửa: “Chú Cảnh thức chưa ?” Hòa là cháu, con bà chị họ của tôi, đang tổ chức vượt biên.

 Saigon năm 1979, dưới móng vuốt của quân cướp nước, dường như ai cũng chỉ còn có một chuyện để lo toan: vượt biên! Vượt biên với bất cứ giá nào! Đối với tôi và đám bạn hữu quân nhân công chức mới thoát ra từ các trại tập trung kinh hoàng và còn đang bị cộng sản quản chế, vượt biên là con đường duy nhất, là lẽ sống. Sau ngày giặc cộng chiếm đóng Saigon, bàn tay nham hiểm của chúng đã gieo rắc bao tang thương đau đớn cho người dân miền Nam, đến mức không ai chịu nổi. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã, những tin kinh hoàng, tin thực và tin đồn, đã như những nhát búa giáng vào thần kinh căng thẳng của đám dân đen vừa bị mất nước và mất tự do: Đánh tư sản, tịch thu nhà đất, bắt bớ văn nghệ sĩ, truy lùng sĩ quan, công chức, đổi tiền, gạo thóc biến mất, đói khổ, trại tập trung như Đức Quốc Xã, khu “kinh tế mới” lưu đầy nơi ma thiêng nước độc dành cho Ngụy… toàn những tin có sức quất sụm sự chịu đựng cuối cùng của cái bản năng sinh tồn nơi một sinh vật.

 Thà liều thân tranh đấu với thủy thần nơi đại dương sóng gió, hay với hải tặc dã man, còn hơn sống với bọn người đồng bào đồng chủng, nhưng say men chủ nghĩa, mê man trong chém giết, nên đã hết là người. Sự hành hạ, khủng bố về tinh thần, sự thiếu thốn những nhu cầu vật chất tối thiểu, đã xô người dân đến đường cùng. Không khí thê lương ảm đạm bao trùm khắp nơi, khiến không ai biết được ngày mai.

 Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ

Vương trên khung cửa bây giờ tang thương
Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường
Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em
Ngày lại ngày, đêm lại đêm
Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha
Buồn từ trong cửa buồn ra
Buồn từ ngã bảy, ngã ba buồn về.

(Hoàng Hải Thủy)

 Không có hộ khẩu, đã hết hạn tạm trú, tôi bị tên công an khu vực săn đuổi như thú dữ tìm mồi. Cái sự ngược ngạo : chủ nhà phải xin phép để được tạm trú trong nhà mình, chỉ là một trong ngàn thảm cảnh mà dân ta phải chịu dưới bàn tay “giải phóng” của lũ ăn cướp! Ban ngày, tôi lang thang ngoài đường phố bụi bặm, áo quần nhầu nát, dưới cái nắng thiêu người, trong đói khát, vật vã. Đêm đến, tôi hồi hộp trà trộn trong đám người qua lại, len lén vượt qua cổng cư xá có bộ đội canh gác, để lẩn về nhà, mê mệt thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng. Có đêm vừa mới chợp mắt, tôi đã nghe tiếng công an đập cửa ầm ầm, khám hộ khẩu. Biết không có chỗ ẩn mình trong nhà, tôi trườn mình qua cửa sau, thoát ra mảnh vườn nhỏ sau nhà. Nhưng tên công an khu vực giống như một loài chó săn thính mũi, nó còn biết mọi xó kẹt trong nhà, ngoài vườn, hơn cả chủ nhà. Đừng có làm trò diễu dở, núp mình như con nít trong bụi chuối, gốc cây, chơi trốn, tìm.

 Không nơi ẩn mình, tôi đành nằm vùi mình bên rãnh nước cống hôi thối, kéo một tấm tôn sét rỉ che trên mình. Vậy mà thoát ! Bọn công an sau khi lục soát mọi ngõ ngách trong nhà, liền ra vườn soi đèn pin hết các gốc cây, bụi chuối. Tôi nghe tiếng thằng công an khu vực người Bắc kỳ hậm hực nói:

 “Thằng này lẩn như chạch! Rõ ràng cái áo nó còn treo trong nhà mà nó đã biến mất rồi!”

 Trong tình cảnh trên đe dưới búa như thế, con người nào còn có thể sống ở nơì mà ta gọi một cách trìu mến là đất nước, quê hương. Rõ ràng quê hương, tổ quốc đã bị cướp đoạt và giầy xéo, chẳng còn là chốn dung thân, dù là chỉ để sống cúi mặt, lầm lũi một đời

 Hôm nay, Hòa tới như đã hẹn trước để dẫn cha con tôi tới một nơi bí mật. Biết giờ ly biệt đã tới, vợ tôi vội vã buông bé Hồng Vân lúc ấy mới hơn ba tuổi, để lo cho tôi và Giang. Cũng như bao gia đình sĩ quan khác trong Cư Xá, chúng tôi lâm cảnh khốn cùng khi giặc Bắc tới. Hai vợ chồng , năm đứa con nhỏ dại, đứa lớn nhất mới tám tuổi và đứa nhỏ nhất còn ẵm trên tay và một mẹ già trên bảy mươi, đột nhiên bị cắt hết nguồn sống, bị “chém treo ngành”, chờ giờ chui vào tù tội. Chồng quân nhân, vợ công chức, chúng tôi không dành dụm được chút vốn liếng nào để phòng ngừa trong cơn hoạn nạn này. Hai vợ chồng bàn nhau cho đứa con trai lớn và lanh lợi nhất vượt biên theo bố. “May ra đi được, thì nó thoát cái cảnh phải sống đời của một con vật, và nhà cũng bớt một miệng ăn!” Niềm “mơ ước” mới tội nghiệp làm sao! Nhưng khi con người ở đáy sâu địa ngục, ước mơ được làm người và được có đồ ăn mỗi bữa, rõ ràng cũng là một mơ ước gần như viển vông.

Thương ôi! Chính niềm khao khát cho con được làm người, và có cơm ăn, đã đẩy vợ chồng tôi đưa ra một quyết định thảm khốc, đã bao năm qua, và sẽ suốt đời vò xé nát tim tôi, làm chảy bao nhiêu nước mắt trong gia đình tôi. Giờ đây, khi viết những dòng chữ này, nước mắt tôi cũng rơi ướt bàn phím đánh chữ. Bịn rịn nhìn người vợ trẻ mắt đẫm lệ và đàn con thơ dại đang ngủ yên lành trong giờ ly biệt, trí óc tôi như tê dại, chân tôi như bị chôn chặt trong đất. Trong một ánh chớp của linh tính, tôi cảm nhận được có cái gì đó, vô cùng đau thương, vô cùng thảm khốc, đang rình rập theo bước chân cha con tôi. Tôi đã muốn buông trôi tất cả, ôm lấy vợ con, để cùng nhau chịu khổ nạn dước ách bọn thực dân bản xứ, mà sự tàn độc còn gấp nhiều lần kẻ ngoại xâm. Nhìn thấy chúng tôi bịn rịn, và vợ tôi mắt đẫm nước, Hòa dục dã:

 “Thôi! thím để cho chú và em Giang đi cho may mắn! Cháu cũng đang vội vì còn nhiều việc phải lo.”

 Làm một cố gắng cuối cùng để bảo vệ con, vợ tôi vồ lấy Giang trong vòng tay với dáng dấp của con gà mẹ che chở cho con trước bóng đen của lũ diều, quạ. Và tôi cũng xô tới ôm chặt cả hai mẹ con. Khi chúng tôi buông tay nhau, tâm trí tôi rã rời. Tôi có cảm giác rất rõ rệt: Mình đang bị một bọn lưu manh vô lại chận đường, ăn cướp và hãm hiếp vợ con, mà tôi đành phải khoanh tay bất lực.

 Tôi quay ra cửa, vật vờ như kẻ mộng du, và Hòa dắt tay Giang theo sau. Trời chưa sáng rõ. Những ngọn cây như còn mờ mịt trong sương đêm. Cư Xá Sĩ Quan im lìm, câm nín, như đang bị bóp nghẹt bằng một bàn tay vô hình nhưng vô cùng tàn bạo. Trong cái buổi sáng hôm đó, khi bóng đêm đen còn lấn áp bình minh, khi “đêm như vô tận, ngày chưa hết ngày” (thơ Huy Lực), tôi nghĩ tới và khắc khoải chia sẻ tâm hồn đòi đoạn của những người bị cướp đánh giết, phải rời bỏ mái ấm của vợ con để lao mình vào nơi vô định, đầy chông gai nguy hiểm. Có ai đo lường nổi sự đau thương, bi phẫn đắng cay của những người dân Việt miền Bắc như tôi, đã một thời kinh tởm đến tột độ cái xã hội sắt máu của bọn quỷ đỏ không tim óc, đến phải bỏ cả những thứ mình thương yêu nhất, chỉ để được cách ly, xa lìa một sự cuồng tín thú vật, mà giờ đây định mệnh lại cho nó chụp xuống đầu mình!

 Chiếc xe gắn máy chở ba người phải mất gần một giờ mới tới một bến sông vắng. Một chiếc thuyền gắn máy đuôi tôm nhô ra từ đám lau sậy ven sông. Hòa ra dấu với người lái đò và vội vã dắt cha con tôi xuống thuyền. Khi chiếc thuyền rời bến, Hoà cũng cùng với chiếc xe gắn máy biến mất trong màn sương sớm. Tôi ôm chặt Giang khi chiếc thuyền nhỏ chòng chành như muốn lật. Gió lạnh từ mặt sông thổi lên cùng với sự giá lạnh trong lòng, làm cho cha con tôi cùng cảm nhận rõ ràng sự rình rập của tử thần như gần gũi đâu đây. Người lái thuyền câm nín, mắt dáo dác nhìn tứ phía, nét mặt luôn có vẻ hốt hoảng. Trên đường đi, thỉnh thoảng anh ta lại thình lình lủi thuyền vào một đám lau sậy ven bờ, ngồi sụp xuống, lặng lẽ quan sát tứ phía.Thái độ và hành động của anh ta làm cho hai hành khách trên thuyền vốn đang hồi hộp và lo sợ, trở nên hoảng loạn. Giang níu chặt lấy tôi, mặt trắng nhợt vì sợ hãi, nói nhỏ vào tai tôi: “Bố ơi! Con sợ quá, mình đi về nhà đi!” Tôi chưa kịp đáp lời con thì anh lái đò đã trợn mắt, ra dấu phải giữ im lặng và lấy tay đè đầu chúng tôi sát xuống sàn xuồng.

 

Giây lát sau, một chiếc xuồng tuần tiễu xé nước trên sông, tạo ra những lớp sóng làm cho con thuyền nhỏ của chúng tôi cơ hồ muốn lật úp. Cuộc hành trình hồi hộp kéo dài trong những sông lạch quanh co, tới khoảng chiều tối thì chúng tôi cặp vào một chiếc xà-lan lớn dềnh dàng đang đỗ ở một khúc sông vắng vẻ. Hai cha con tôi hối hả leo lên xà-lan và được đưa ngay xuống hầm tầu. Hầm rộng rinh, nhưng tối om và vắng lặng như tờ. Khi mắt đã quen với bóng tối, chúng tôi nhận ra ít nhất cũng có cả chục người đang núp mình trong các xó kẹt. Họ như những con gián, thấy ánh sáng và tiếng động là vội vã chui vào khe, lỗ ẩn mình. Chừng như đã quan sát rất kỹ, và nhận biết chúng tôi chỉ là những người như họ, đang tìm cách trốn đi, một vài người ra khỏi chỗ núp và lân la làm quen, hỏi thăm tin tức. Nhưng chúng tôi vẫn còn quá dè dặt, nghi ngờ nhau, nên không ai biết thêm được tin tức gì ngoài cái tin mình cùng là người đang tìm cách vượt biên và đang nằm chờ đợi chưa biết đến bao giờ. Vả lại, chúng tôi cũng đâu có biết tin gì khác!

 

Xà-lan vẫn lờ lững trên dòng sông mênh mông, nước trôi cuồn cuộn. Mỗi ngày, vào chiều tối, lại có thêm người từ các thuyền nhỏ chở tới. Họ xuất hiện bất ngờ, nhưng ai cũng giống nhau ở nét mặt hốt hoảng, đôi mắt dáo giác, đầy lo âu, sợ sệt. Vào ngày thư hai, khi ruột gan tôi đang nóng như lửa đốt, thì chiều tối, một toán người được đưa xuống xà-lan. Có ba người là anh em của Hòa trong đám mới tới. Vì tôi là anh em họ và cùng có nhà trong cư xá sĩ quan, Hòa lại là người trong tổ chức vượt biên, chúng tôi vồ lấy nhau, mừng rỡ, tưởng như đã qua mười kiếp đầu thai mới gặp lại. Nhờ mấy người em của Hòa, chúng tôi được biết đêm mai, đúng đêm Chúa Giáng sinh, mọi người sẽ ra “cá lớn” và sẽ thoát, vì đã mua hết các trạm công an biên phòng!

 Mấy đứa em Hòa cũng mang tới nhiều đồ ăn và lương khô. Chúng tôi chia nhau ăn, và cùng cảm thấy bớt lo âu. Giang cũng vui, vì có thằng Hiệp cùng trạc tuổi nó và là bạn học cùng trường Trần Phú trong cư xá. Hai đứa nhỏ rù rì kể chuyện với nhau. Tôi lóng tai nghe trộm, mới biết trong thời gian tôi trần mình trả nợ đòn thù trong trại tù cải tạo, thằng con trai chưa đầy mười tuổi của tôi đã phong sương và dầy dạn như thế nào. Giang kể cho Hiệp rằng nó đã từng trốn mẹ, ra tới bến Nhà Rồng, nơi cô giáo của nó khi giảng bài, đã phải uốn lưỡi và méo miệng mới đọc nổi tên con tàu “La tút Trê Vi Ê chở bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước. Nó cũng đã tập bơi trên sông Saigon, và hợp sức với bạn làm phu khuân vác, kiếm chút tiền, để làm dịu bớt cơn đòi hỏi dữ dội của dạ dày! Câu chuyện kiếm ăn độ nhật của Giang như mũi dao nhọn xoáy vào tim tôi. Thằng Hiệp đáp lời Giang bằng cách nêu những câu hỏi rất khó cho Giang trả lời:

 “Sao ‘bác’ đi tìm cách đánh Tây mà ‘bác’ lại được Tây cho xuống tàu của nó, cho ‘bác’ làm bồi, rồi chở ‘bác’ sang Tây ! Đi tàu của Tây chắc khoái lắm. Sao mày không nói với ba mày tới bến Nhà Rồng xem có tàu nào thuê gọt vỏ khoai, rồi mày đi theo, khỏi phải đi tàu bé tí tẹo của anh Hòa. Mà sao ‘bác Hồ’ phải sang Tây để đánh Tây. Chắc ở bên Tây có nhiều Tây, nên ‘bác’ dễ tìm nó để đánh hơn là ở bên ta?”

 Câu chuyện thơ ngây của hai đứa trẻ khiến tôi nghĩ tới một tên đại gian, đại ác khoác áo “kách mệnh.” Đúng! Dưới “biện chứng phét” của nhà cộng, “bác” của chúng nó, một thằng lưu manh trôi sông, lạc chợ, đi lang thang kiếm ăn, đã được đảng cướp của cộng phù phép cho là đi ” kíu ” nước, song vẫn không dấu được cái việc xin làm bồi dưới tàu Tây, lãnh lương Tây, ngồi gọt vỏ khoai để kiếm bánh mì và sang tới Tây, ngồi rị mọ chia véc-bờ, viết đơn xin học trường thuộc địa, nuôi mộng được Tây cho nhập hàng khuyển mã. Nhưng thôi, nó gọt vỏ khoai để kiếm ăn, thì mặc mẹ nó, nhưng điều đáng nói là cái thằng bất nhân đó, dưới thời thống trị của thực dân mà chúng ta vẫn cho là tàn bạo, nó đã có thừa tự do, dư an toàn, để xuất ngoại học nghề làm loạn và ăn cướp, nhưng bây giờ đồ đảng của nó đang rình rập, hờm súng bắn giết những kẻ vì bàn tay tàn bạo của nó mà phải bỏ xứ ra đi . Ngày nay, dưới ánh sáng chói lọi của lịch sử, “ bác” của chúng nó đã hiện nguyên hình là một con quỷ, giết vợ, bỏ con, chặt đầu ân nhân đã che chở nó lúc nó khốn cùng. Nó trơ trẽn say mê danh vọng, đến nỗi phải dùng mưu con trẻ, giấu mặt, viết sách để tự ca tụng “công đức” tưởng tượng của nó. Tôi ước ao được có ngày nhổ vào mặt nó, hay hơn nữa, như “cháu ngoan” Dương Thu Hương của nó hằng ước mơ, được ị lên mặt nó.

 Vào ngày thứ ba dưới xà-lan, cũng là ngày cuối cùng, một nhóm đông đảo được mấy chiếc xuồng nhỏ chở tới. Tôi chú ý tới một gia đình có bốn người. Người chồng là một thanh niên đẹp trai. Bà vợ là một thiếu phụ rất trẻ và duyên dáng. Họ có một con nhỏ khoảng bốn năm tuổi, mà họ gọi là thằng Bo. Một người nữa trong gia đình đó là một thanh niên, tôi đoán là em bà vợ, vì nét mặt đẹp trai của cậu rất giống chị. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã, phải núp lén và chờ đợi trong lo âu, căng thẳng, họ vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, tươi mát. Người vợ dỗ con bằng giọng ngọt ngào:

 “Bo ơi ! Con ăn miếng bánh nhé? Hay uống cho mẹ chút sữa này!”

 Rồi quay qua chồng, bà âu yếm nói:

 “Trông anh hơi mệt ! Để em lấy cho anh vài lát sâm, anh ngậm nhé?”

 Đó là gia đình của Trung úy Không quân Khúc Ngọc Bảo. Tôi chẳng ngại viết tên anh ra đây, vì tôi biết ở nơi an bình vĩnh cửu, anh đang là chứng nhân tố cáo tội ác ghê khiếp của việt cộng và Hồ tặc, trước sự phán xét của Chúa, Phật, quỷ thần. Còn tại nơi trần thế đầy khổ đau và nước mắt này, bọn cộng sản bỉ ổi dù có khát máu xương cách nào cũng không rớ tới lông chân của những kẻ đã về bên Chúa, Phật.

 Tôi còn hy vọng những dòng chữ muộn màng này có may mắn lọt vào mắt bạn hữu và thân nhân của anh chị. Dù là một tin đau thương đứt ruột, tôi nghĩ mọi người thân của anh chị sẽ chấm dứt được nỗi khắc khoải đợi chờ quá lâu tin tức của anh.

 Gia đình anh Bảo và tôi nhanh chóng thân nhau. Bảo kể lại câu chuyện khi anh di tản trong sân bay Nha Trang vào cuối tháng tư đen, anh nhặt được một bé gái, còn đang quấn trong tã, bị mẹ nó đánh rơi trong khi chen lấn lên tàu bay. Khi máy bay về tới Tân Sơn Nhất, đứa nhỏ khát sữa, khóc khan cả tiếng, anh bươn chải đi tìm sữa cho nó bú, thì gặp ngay… bà mẹ của con bé ! Nỗi mừng biết lấy chi cân! Bà mẹ vồ lấy con, rồi lại cuống quýt ôm chặt lấy ân nhân đã cứu con mình. Nước mắt lưng tròng, họ vội vã trao đổi tin tức về gia cảnh của nhau. Bà mẹ trẻ nghẹn ngào, đoan chắc rằng:

 “Nếu sau này con bé thành người, nó phải là con ông! Nó sẽ là vợ của cháu Bo.”

 Cháu bé gái nay chắc đã “thành người,” nhưng nó chẳng bao giờ được trả nghĩa ân nhân, được là vợ của cháu Bo.

 Tôi hỏi Bảo:

 “À, mà cái tên Bo nghe có vẻ lạ tai. Có phải khi chị sanh cháu thì cả nước cùng được ăn bo bo, nên anh chị muốn… kỷ niệm cái thời của bác Hồ chó đẻ đó chăng?”

 Anh lắc đầu, phì cười:

 ”Không phải thế đâu anh ! Ai lại dùng những kỷ niệm đen tối để đặt tên cho đứa con thương yêu của mình. Tôi ngưỡng mộ tài năng và tư cách một nhà bác học, hy vọng con mình sau này tới bờ bến tự do, sẽ học hành giỏi và trở thành một ông Bo khác.”

 Tôi đáp lời Bảo:

 “À! Có thế chứ. Hy vọng lắm. Ai biết được tương lai. Niels Bohr, nhà vật lý nguyên tử lừng lẫy của Đan mạch.”

 Rồi cả hai chúng tôi đều im lặng, mơ màng.Tôi nghĩ một người đã làm phúc lớn như anh Bảo, thì thằng Bo con anh có thể sẽ là một “Niels Bohr” người Mỹ gốc Việt. Rồi tôi hy vọng: được đi chung chuyến tàu với một con người nhân hậu như thế, tôi sẽ thoát.

 Ôi, những giấc mơ vỡ vụn, đã sớm chìm vào lòng đại dương ngay sáng hôm sau! Suốt cả buổi chiều ngày thứ ba, nhiều xuồng, thuyền nhỏ tới tấp cặp vào xà-lan. Người ta leo lên xà-lan như kiến. Lòng xà-lan rộng rinh lúc ban sáng, giờ đây chật cứng. Chúng tôi bị xô dạt vào một khe nhỏ, giữa những cây cột bên vách. Tin tức lan truyền nhanh chóng cho biết: Tối nay sẽ “đánh.” Ai nấy hối hả kiểm lại hành lý, dặn dò nhau, nét mặt căng thẳng.

 Đêm xuống thật mau. Các trưởng toán đếm đầu người và hướng dẫn người trong toán. Tôi nghe có tiếng cãi cọ, tiếng đe dọa rút súng bắn, tiếng van lơn, khuyên can nhau. Chưa xuống được tàu mà sự tranh sống đã bắt đầu quyết liệt. Tôi linh cảm một sự bất tường. Vừa kiểm lại cái bình năm lít đựng nước ngọt và túi bánh “bích quy,” tôi vừa dặn Giang phải nhớ cái địa chỉ của người em tôi ở Texas, phòng khi “bị lạc bố, thì con biết đường báo tin cho chú.”  Giang làm tôi yên lòng bằng cách đọc ngay cái địa chỉ:

 “Con nhớ kỹ rồi ! …Houston, Tx 77089!” 

 Cẩn thận hơn, tôi dùng viết bic mực đen, viết địa chỉ vào áo Giang. Linh tính báo cho tôi biết, chúng tôi sẽ lạc mất nhau. Sự lo âu, đau đớn làm tôi rã rời, miệng đắng chát, mắt hoa lên và tôi lảo đảo như người say rượu. Giang lo lắng ôm lấy tôi, và nói:

 Hay mình đi về, Bố ạ!” 

 Nhưng làm gì còn có thể về được nữa! Toán của tôi đã bị xô lên boong xà-lan. Trong bóng tối lờ mờ, tôi nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ đang cặp sát xà-lan, và một dòng người như kiến đang leo xuống ghe. Chiếc ghe nhỏ tới nỗi so với xà-lan, nó như một chiếc xe hơi đậu cạnh tòa “bin-đinh!” Giang thất vọng nói:

 Mình xuống tàu nhỏ chứ không lên tàu lớn bố ạ!” 

 Chúng tôi cùng kinh ngạc về sự nhỏ bé của chiếc ghe sẽ chở chúng tôi ra biển. Anh Bảo an ủi tôi rằng có lẽ đây chỉ là chiếc “taxi” dùng chở khách ra ghe lớn ở ngoài xa. Nhưng kinh hãi thay! Đó chính là chiếc ghe định mệnh đã “giải phóng” hơn trăm con người khỏi cái tai ương Cộng sản mà dân ta còn đang phải sống quằn quại với nó chưa biết tới bao giờ!

 Khi cha con tôi bị đẩy xuống hầm ghe, thì nơi đó đã chật cứng. Vậy mà người ta vẫn tiếp tục ấn người xuống tiếp. Một người đàn bà đã ngồi ngay trên… đầu tôi ! Khi Giang lên tiếng gọi, tôi không thể trả lời nó, vì cái mông to lớn của người đó áp chặt vào mặt tôi. Giang sờ soạng trong bóng tối, và khi biết rõ tại sao tôi không thể lên tiếng, nó dùng hết sức đẩy cái mông người đàn bà ra xa mặt tôi. Bà ta tức giận, nói lớn:

 “Gớm! Cái thằng bé này sao đành hanh quá! Ghe chật mà nó xô đẩy mới khiếp chứ!”

 Giang cãi lại:

 “Bà không được ngồi lên mặt người ta!”

 Có tiếng người can ngăn:

 “Thôi! ráng chút đi. Lát nữa ra khơi, lên boong tàu, tha hồ ngồi rộng rãi!” 

 Đúng! Lát nữa ra khơi…! Nhưng bây giờ còn phải ngồi lên đầu nhau và nín thở để qua ba trạm biên phòng nữa. Mỗi khi chiếc ghe nhỏ phải ghé vào bờ, lại nghe tiếng quát nạt lẫn tiếng van xin và ánh đèn pin loang loáng quét xuống hầm tầu, nơi cả trăm sinh vật khốn khổ xanh mặt, cảm thấy mạng mình nhỏ như con sâu, cái kiến. Kết quả của những sự dọa nạt và van xin đó là ghe phải nhận thêm năm bẩy nhân mạng tình nguyện hy sinh, để vàng thêm đầy túi quân ăn cướp! Tới trạm thứ ba, và cũng là trạm cuối cùng, tiếng van xin nghe thống thiết hơn và tiếng quát nạt cũng dữ dội hơn.

 “Xin các anh tha cho! Ghe đã quá tải, không còn nhét người vào đâu được nữa!”  

 “À! bọn mày định trở mặt, nuốt lời không chở người của chúng ông hả ? Muốn đi tù cả đám phải không? Tưởng chúng ông không dám bắn vỡ sọ bọn vượt biên sao!” 

 Đến tình cảnh ấy thì kết quả vẫn như đã xảy ra nơi các trạm biên phòng trước. Một số người lại được lục tục cho xuống ghe. Nhưng may mắn (!) cho những người đang ngồi chồng chất lên nhau dưới hầm ghe, bọn mới xuống không còn bị ấn xuống hầm. Họ ôm nhau ngồi trên boong. Chiếc ghe nhỏ thoát tay quỷ dữ, ì ạch lết đi trong đêm đen… Nó chỉ có sứ mạng chở 30 hay 40 người, đã phải ôm một trăm hai mươi sáu nhân mạng (126)! Sự lo âu, hồi hộp kéo dài đã làm tê liệt nhận thức con người…

 Không ai biết được thời gian đã trôi qua bao lâu. Chợt có tiếng sóng biển ầm ầm như sấm, đập vào mạn ghe. Ai nấy có cảm giác như chiếc ghe bị nâng lên tới mây xanh rồi lại chúi đầu xuống đất. Đã có người nôn oẹ và môt mùi chua, tanh nồng bay vào mũi, làm tôi thấy ruột gan như muốn trào lên cuống họng. Chợt Giang kêu lên:

 Nước lên ướt hết quần Giang rồi bố à!” 

 Có tiếng một người khác la lớn:

 “Cho chạy máy bơm nước đi Hòa ơi! Nước vô nhiều quá rồi!”  

 Máy bơm nước trong ghe được khởi động. Sau những tiếng nổ phành phạch, một làn khói khét lẹt tràn đầy trong hầm tầu, gây nên những trận ho sặc sụa và cơn uạ mửa tập thể.

 Nhưng sao nước không rút xuống mà lại dâng lên quá nhanh. Chiếc ghe hình như chìm xuống thấp hơn. Một lượn sóng tung bọt nước trắng xóa tràn lên boong tàu, trút một trận mưa xuống tầng dưới. Ai nấy ướt như chuột lột… Tôi nhìn chiếc mặt đồng hồ xanh lè trên cổ tay anh Bảo: 12g15! Đã quá nửa đêm. Chúa đã giáng sinh đem an bình cho người dưới thế. Nhưng một đám con cái bất hạnh của Chúa đêm nay đã sa vào tay quỷ dữ và sẽ chẳng còn dịp thấy ánh sáng mặt trời của ngày mai, để hát bài thánh ca tạ ơn Chúa. Phút chốc nước đã tới ngực, mọi người dưới hầm chen nhau ùa lên boong tàu. Khi cha con tôi lập cập leo lên tới nơi, một cảnh tượng kinh hoàng diễn ra trước mắt. Từng gia đình xúm quanh nhau, kêu khóc, cầu Chúa, khấn Phật. Vài thanh niên còn đang cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu chiếc ghe, bằng cách dùng thùng hối hả múc nước trong ghe đổ ra ngoài.

 Gia đình anh Bảo bốn người cũng đang bíu lấy nhau. Một tay anh ẵm thằng Bo, tay kia nắm lấy tay vợ. Họ không cầu nguyện, nhưng hai vợ chồng liên tiếp rền rĩ những tiếng kêu thương đứt ruột:

  “Ôi! Bo ôi! Bo ôi… Bo ôi…!” 

 Trong giờ lâm tử, họ đã quên nghĩ đến thân mình, nhưng nỗi đau xé ruột của họ chính là sự tiêu diệt cái mầm sống tươi non mà họ hết lòng yêu thương và chứa chan hy vọng. Tâm trạng tôi nào có khác gì vợ chồng anh Bảo. Tôi nghĩ tới Giang, nghĩ tới mẹ nó, các em nó và tôi muốn kêu lên một tiếng xé trời cho bớt nỗi bi ai thống khổ của một kiếp người chẳng may bị nghiền trong hàm răng máu me của một loài quỷ dữ.

 “Ôi! Bo ôi, Bo ôi!“ 

 Tiếng kêu than vỡ tim, xé óc từ bên ngưỡng cửa tử sinh vẫn còn mãi mãi âm vang bên tai tôi, vì nó chỉ là tiếng dội từ chính trái tim tan nát của riêng tôi. “Ôi ! Giang ơi ! Giang ơi ! “ Giang theo lời tôi, cúi xuống mở nắp cái bình 5 lít mà nó mang theo. Nó trút nước trong bình xuống sàn tàu nhưng giữ lại một it nước, và đưa bình cho tôi:

 ”Bố uống đi! Có khi bố sẽ khát!” 

 Tôi vội vã làm theo ý Giang, rồi đóng nắp bình, tôi nói với nó:

 Con ôm lấy cái bình này…”  

 Tôi chưa nói hết câu thì chiếc ghe như bị một bàn tay khổng lồ đẩy cho lật sấp. Từng chùm người rơi nhanh xuống biển. Dưới ánh sao đêm, tôi thoáng nhìn thấy những bóng đen tung theo từng đợt sóng trắng xóa. Vừa rớt xuống nước, tôi bị cả chục bàn tay bíu lấy cổ, lấy đầu. Tôi theo chùm người, chìm sâu mãi xuống. Càng xuống sâu, các vòng tay càng nới lỏng, và sau cùng, không còn ai bám vào tôi nữa. Tôi hụt hơi, uống nhiều nước biển, trước khi trồi lên mặt nước. Nghĩ tới Giang, tôi sải cánh tay bơi qua bơi lại rất vội vã, miệng rền rĩ gọi tên Giang, hy vọng tìm thấy con. Sự gắng sức bừa bãi làm tôi kiệt lực rất mau.

 Những ngày dở sống dở chết trong tù cải tạo, sức khỏe tôi đã tiêu mòn, lại thêm ba ngày bó rọ, lo âu dưới xà-lan, tôi đâu còn bao sức lực. Sóng rất lớn. Tôi ráng giữ cho cái mũi trồi lên trên mặt nước mà không được. Tôi sặc sụa và… chìm dần! Chợt một cái bọc ni lông trắng trôi qua trước mặt.. Tôi vội bám lấy nó, và tôi đặt cằm lên cái phao đó, há miệng gấp gáp thở, thỉnh thoảng lại bị nuốt những ngụm nước lớn do sóng biển đẩy vào miệng. Tựa cằm vào cái bọc ni lông đó, tôi nghỉ ngơi, và có lúc đã xỉu đi. Mỗi lần mê đi như thế, tôi đều vuột tay khỏi cái phao. Chẳng bao lâu, tôi nhận ra cái phao đang chìm dần. Thì ra đó chỉ là một bọc quần áo. Bị ngấm nước, nó sẽ chìm.

 Khi nhận biết điều đó, tôi bỏ bọc quần áo và cố sức bơi lại một vật đen thù lù có vẻ như đứng yên một chỗ trên mặt biển. Bơi đã kiệt sức mới tới gần cái vật lạ đó: Đấy là một chùm người đang tuyệt vọng bám vào cái mũi ghe. Ghe chìm, nhưng cái mũi nó còn lưu luyến thêm chốc lát trên lớp sóng bạc đầu. Không còn chỗ cho tôi bám, tôi đành bơi loanh quanh. Chợt một cái bọc ni lông khác tấp vào mặt tôi. Đây là một cái bọc trái cây, trong có những trái cam hay bưởi. Sức nổi của cái bọc này rất yếu, nhưng nó cũng giúp tôi đỡ phải vùng vẫy để giữ cho cái đầu khỏi chìm. Nhưng do tôi quơ cào nhiều lần, cái bọc rách toang, và những trái cam trái chanh gì đó, thoát ra, nổi lều bều khắp nơi, mang theo chút hy vọng sống còn của tôi.

 Một lần nữa, tôi sắp bị biển khơi nuốt sống, thì tôi chợt nhìn thấy có hai bóng đen đang vật vã cạnh một vật nổi. Ráng chút sức tàn, tôi bơi lại chỗ hai người. Đó là một phụ nữ trẻ và một đứa bé trai khoảng trên mười tuổi. Một phi dầu, nằm ngang, nổi bập bềnh trước mặt họ. Thằng bé kiệt lực, buông tay và kêu cứu mẹ nó. Người mẹ khuyến khích: “Con ráng bám vào đây.”  Nhưng làm sao mà bám được vào cái thùng phuy tròn, nổi bập bềnh, không một chỗ để nắm. Mỗi khi bám vào, nó liền xoay tròn theo sức nặng người bám. Chỉ còn cách duy nhất là… bám lại. Hai tay luôn luôn quơ cào để ráng bấu một cách tuyệt vọng vào cái vật vừa cứng vừa tròn, vừa quay như con vụ! Sức voi cũng phải cạn kiệt rất mau. Một đứa trẻ làm sao chịu thấu.

 Khi tôi bơi tới nơi, nhận thấy đây là một cái phao chắc chắn, tôi cố bám vào, và tôi kéo tay thằng bé đặt trên thùng phuy, nhưng tay nó mềm nhũn. Nó úp mặt xuống nước, nổi bập bềnh theo chúng tôi. Tôi cố sức bám vào cái thùng phuy tới nỗi mười đầu móng tay bị mài cụt tới thịt, rướm máu, đau nhức, không còn chịu nổi. Tôi nói với người phụ nữ, để chúng tôi nắm lấy tay nhau, choàng qua cái thùng phuy, kèm nó vào giữa ngực hai người. Nhưng sóng đánh mạnh quá, chiếc thùng tung lên, hụp xuống, làm cho tay chúng tôi cơ hồ muốn gãy, Nó cũng đập vào mặt làm tôi bị dập môi và bà ta bị chảy máu mũi. Chúng tôi đành buông tay nhau ra, và lại dùng phương pháp “chuột bạch đánh vòng,” nghĩa là cào cấu, để bám vào cái thùng sắt đang quay tròn.. Nhưng chúng tôi cùng kiệt sức quá rồi. Tôi đã mấy lần buông tay, và người thiếu phụ cũng rã rời. Tôi chợt nghĩ: nếu có một sợi dây thừng, đem quàng qua cái thùng, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thì có thể chịu đựng được khá lâu. Làm sao có cái thừng? Làm sao có cái thừng?

 Đầu óc tôi rộn lên một ý muốn mãnh liệt, để cố tìm được một sợi dây thừng. Tôi nhìn trừng trừng vào mái tóc dài của người thiếu phụ trôi lòa xòa trong sóng, và nghĩ tới cách cắt tóc đó bện làm sợi dây thừng. Ý muốn mãnh liệt tới nỗi tôi tưởng như có thể thực hiện nổi trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này. Nhưng đó vẫn chỉ là ý nghĩ. Sao không xé áo quần để làm sợi dây? Ý đó lóe lên trong óc tôi như tia chớp. Nhưng tôi thất vọng ngay. Trên người tôi chỉ còn chiếc quần cụt! Nhưng kìa, người phụ nữ đang cùng tôi chống chọi với thủy thần vẫn còn đủ áo quần. Tôi suy nghĩ và đề nghị với chị một điều mà tôi chắc chưa một người đàn ông nào có tâm trí bình thường dám nói: “Tôi xin chị cởi chiếc quần đang mặc.  Quàng nó qua cái thùng phuy, và mỗi người sẽ nắm lấy một ống quần, như một điểm tựa để sống còn.”

 Tôi không phải giải thích đến lần thứ hai, người thiếu phụ lập tức làm theo lời tôi nói. Sóng đã dịu bớt. Chúng tôi mỗi người nắm một ống quần, ngủ thiếp đi trên mặt biển mênh mang, cuồn cuộn sóng bạc đầu, rải rác vẫn còn những xác người bập bềnh trôi theo! Chúng tôi vật vờ trong sóng nước không biết đã bao lâu. Khi tôi ngẩng lên trời cao và cầu nguyện, tôi thấy những ngôi sao như ít đi. Một thứ ánh sáng màu xám nhạt như đang lan tỏa trong không gian, đẩy lùi bóng tối. Trên mặt biển vắng lặng, một làn hơi nhẹ như sương như khói bốc lên từ mặt nước.Trời đã sắp sáng! Đột nhiên tôi cảm thấy lạnh cóng.Trong mấy giờ qua, lo vật lộn với sóng nước, lo tìm kiếm và bám víu vào các vật nổi, tôi quên đi cái lạnh cắt da của buổi sớm mùa đông giữa biển khơi lộng gió. Khi tôi nhớ ra mình đang bị lạnh, cơn lạnh như ào ào kéo tới. Nó làm tôi run bắn, hàm răng va vào nhau lộp cộp.

 Tay tôi như cứng đơ và tôi không còn cảm giác đang cầm nắm vật gì. Trông sang người phụ nữ, tôi thấy môi chị tím lại, da mặt trắng bệch như xác chết; một bên tóc rủ xuống che lấp mắt mà chị cũng không còn sức hất nó lên. Nghĩ tới Giang, một cơn tuyệt vọng não nề làm tôi rã rời. Tôi nói với người thiếu phụ:

 “Chị ơi! Tôi mệt quá rồi! Không có ai cứu, chắc mình sẽ chìm mất thôi. Tôi chỉ còn đợi bình minh lên để nhìn thấy mặt trời một lần cuối cùng thôi, rồi tôi sẽ buông tay!”

 Người phụ nữ hốt hoảng kêu lên:

 “Xin đừng buông tay! anh buông tay là tôi cũng chết theo!”

 Điều ấy đã hiển nhiên. Không có tôi nắm một ống quần, sẽ chẳng còn đối trọng, cái ống quần chị đang nắm sẽ hụt hẫng, không còn quấn vào cái thùng phuy. Lúc ấy, chị chỉ còn cách tái diễn việc dùng tay bám vào cái thùng quay tròn trong sóng. Chị biết rõ là không còn sức lực để làm việc ấy. Tôi an ủi chị bằng cách hứa trước khi kiệt lực chết, tôi sẽ ráng cột chặt cái ống quần vào cổ tôi, điều ấy tôi biết mình không làm nổi.

 Rồi bình minh cũng tới. Mặt trời thổ ra một vũng máu hồng trên biển. Nền trời vẫn đầy những đám mây đen viền vàng, hình thù quái dị đầy đe dọa. Tôi vẫn nắm chặt cái ống quần, nhưng không còn đủ sức cất đầu khỏi mặt nước. Khi đầu tôi chìm trong nước, tôi cảm nhận mơ hồ thấy âm thanh của một cái máy tàu đang chạy. Đó là cái tiếng ùng ục của chân vịt máy quậy trong nước. Tôi ngửng đầu nói với người thiếu phụ:

 “Hình như có cái tàu đang tới!”

 Mặt người phụ nữ sáng lên niềm hy vọng. Chị dồn dập hỏi tôi:

 “Sao anh biết ? Sao anh biết?“

 Khi tôi đáp :

 ”Tôi nghe thấy nó!“

 Chị thất vọng, tưởng tôi nói trong cơn mê sảng. Tôi mệt quá, lại gục đầu xuống nước. Lần này âm thanh tôi nghe được lớn hơn và rõ hơn. Tôi lại ngẩng đầu lên nói:

 “Đúng! Có cái tàu đang tới!” 

 Chúng tôi cùng quay nhìn khắp bốn phương. Trong khi mắt tôi bị chói ánh mặt trời, chỉ thấy một vầng sáng lòa trước mắt, chị reo lên mừng rỡ:

 “Có một cái chấm đen phía sau lưng anh kìa! Đúng rồi, một cái tàu đang tới!” 

 Chúng tôi như hồi sinh, mạnh mẽ hẳn lên với niềm hy vọng thoát tay tử thần. Giây lát, một chiếc ghe đánh cá nhỏ lướt sóng tới nơi. Nó chạy vòng quanh chúng tôi, với vòng tròn ngày càng thu hẹp lại. Một người đàn ông trên ghe chìa ra một cây sào. Người phụ nữ buông cái thùng phuy, nắm lấy cây sào và nhanh chóng được kéo lên tàu. Không còn người giữ cái ống quần bên kia thùng phuy làm vật đối trọng, tôi hụt hẫng, dùng tay cố bám cái thùng, nhưng đành chịu thua.  May mắn, chiếc ghe cứu người đã quay lại, và cây sào lại chìa ra.

 Tôi không còn đủ sức nắm lấy nó Các ngón tay tôi co quắp, cứng đơ. Người trên tàu lùa cây sào vào nách tôi, quậy mạnh và thét lớn:

 “Kẹp lấy! Kẹp chặt lấy!” 

 Nhưng khi cây sào được kéo lên, không có tôi đi theo. Tôi đã quá yếu, không đủ sức kẹp cây sào vào nách. Người ta phải lượn chiếc ghe vào sát bên tôi, và nhanh chóng túm lấy tóc tôi, kéo lên. Tôi được lôi lên tàu như một con cá chết. Tôi nằm vật ra sàn ghe, thân thể nhăn nheo, trắng bợt. Thấy tôi rét run, một người đánh cá quơ đống lưới trên sàn tàu phủ lên người tôi, rồi thản nhiên bỏ đi. Đối với đám dân chài cộng sản, sự cấp cứu một người gần chết, chỉ tới mức đó. Lòng nhân đạo của con người dưới thời cộng sản cũng ít ỏi và sơ sài như cái tem phiếu phân phối nhu yếu phẩm của Đảng. Dù đang mệt xỉu, tôi cũng ngửi thấy cái lưới cá vô cùng tanh tưởi. Tôi ụa mửa. liên hồi. Nước biển mặn chát tuôn ồng ộc qua miệng. Tôi cũng liên tục tiêu chảy ra nước biển. Mắt hoa lên, tôi ngất đi. Thời gian không biết đã trôi qua bao lâu.

 o O o

 Tôi tỉnh dậy thấy thân mình ấm, nóng, nhưng mệt rã rời và cổ khô như cháy. Chao ơi! Tôi khát nước ! Nhưng vì quá yếu, tôi không thể lên tiếng, cũng không đủ sức đẩy cái lưới cá phủ trên mình. Đúng lúc đó, tôi nghe tiếng một người đàn ông nói:

 “Anh kia chắc chết rồi! Không thấy động đậy chi cả. Phải chồng chị không? Không phải! Vậy để tôi coi. Nên quăng xác anh ta xuống biển để khỏi phiền nhiễu khi về tới bến.”

 Khi cái lưới cá được dở lên, tôi trông thấy một người đàn ông mình trần, da đen bóng, đứng bên môt phụ nữ xinh đẹp, nhưng lại mặc bộ bà ba của đàn ông, trông hơi quen. Không nói được, tôi lấy tay chỉ vô miệng. Chị ta reo lên:  

 “Ông ấy còn sống! Ông ấy khát nước. Tội nghiệp! Để tôi cho ông hớp nước.”

 Rồi chị tất tả chạy vào “cabin,” bưng ra một bát nước. Chị nhẹ nhàng nâng dầu tôi lên và kê bát nước vô miệng. Nước ngọt như cam lồ của Phật bà Quan Thế Âm.

 Sau khi uống bát nước, tôi nằm xuống ngủ li bì như chết. Khi tôi tỉnh dậy, trời đã về chiều, người tôi đang lắc lư theo nhịp di chuyển của chiếc xe vận tải có công an cầm súng. Tay tôi bị xích chung với tay một người thanh niên lạ. Tám người chúng tôi sống sót trong chuyến ghe định mệnh. Sự đau đớn xót xa vì mất người thân khiến ai nấy ngậm ngùi câm nín, không một biểu lộ vui mừng vì mình thoát chết. Ôi, nếu những kẻ được trời cho sống qua cơn đại nạn này, mà lại biết trước rằng: Trại giam chấp pháp Bến Tre và các trại lao động khổ sai Bến Tranh, Châu Bình đang chờ đón họ, tôi chắc họ cũng đã vui vẻ buông tay theo người thân về lòng biển cả, nơi không có loài thú cộng sản và cũng chẳng có hận thù. Tôi tự hỏi: Phải chăng lời cầu nguyện của tôi trong lúc sắp tan biến vào lòng Đại dương, đã cho tôi thấy lại một bình minh.

 Tôi không biết. Nhưng tôi linh cảm thấy từ nay, bình minh sẽ mãi mãi rực rỡ trên đầu tôi, dù bọn cộng giết người có đầy đọa, chà xát tôi đến cỡ nào. Đạo bùa linh mà loài ác quỷ ăn cắp ở đâu đó, để xử dụng làm toàn điều ác kinh khiếp cho chúng ta, nay đã hết thiêng và không còn hiệu lực nào đối với tôi. Tôi còn niềm tin sắt đá rằng: Dù nước Việt ta trải qua trăm cay ngàn đắng trong đêm dài cộng sản, một bình minh tươi sáng sẽ theo ánh dương về soi rõ mặt kẻ thù, và quét sạch đêm đen. Không thể khác được, vì có ai ngăn được mặt trời xuất hiện sau đêm dài tăm tối!

 Ngày nay, mỗi đêm ngồi lặng lẽ thiền định trong bóng tối, theo dõi hơi thở, để chú tâm sống những giây phút nhiệm màu của hiện tại, tôi vẫn phải thỉnh thoảng vật lộn với những hình ảnh và cảm giác khủng khiếp của con thuyền định mệnh năm nào. Tôi thấy Giang khom mình đổ nước xuống sàn tàu, tôi thấy gia đinh anh Khúc Ngọc Bảo đang xúm vào nhau kêu thương rền rĩ “Bo ơi! Bo ơí!…” Tôi thấy xác đứa nhỏ bập bềnh trong sóng nước trôi theo mẹ nó đang quay tròn bên cái thùng phuy lập lờ trong sóng… Tôi ngừng theo dõi hơi thở, để quán chiếu những hình ảnh bi thương đó cho đến khi nó tàn úa trong tâm tưởng, và biến mất, trả lại cho tôi phút giây hiện tai. Nhưng nhiều lần tôi thất bại, không làm cho nó biến đi được. Tôi càng quán chiếu, những hình ảnh ghê rợn và cảm giác hãi hùng càng hiện ra rõ rệt như thực. Tôi đành bỏ phí một buổi thiền tập, ra bàn thờ thắp hương và niệm Phật.

 Nhiều đêm trong mơ, tôi thấy người phụ nữ mặc áo bà ba đàn ông, đứng bên đống lưới cá, nâng đầu cho tôi uống nước. Người phụ nữ mà tôi có dịp chia sẻ sự sống còn trong đêm Giáng Sinh năm 1979 chính là hiền thê của anh Ngô Cảnh H., một bạn đồng môn của chúng ta. Tôi ngậm ngùi tưởng nhớ hàng trăm ngàn đồng bào, như Giang, như gia đình anh Khúc Ngọc Bảo đã bỏ mình vì sự tàn độc của một lũ cuồng tín, hung bạo và dốt nát. Thân xác họ đã yên nghỉ trong lòng đại dương, nhưng anh linh của họ sẽ kết tụ thành mây bão, thổi sập cái chế độ bất nhân đang siết cổ dân ta.

 Biển xanh yên giấc ngàn thu

Thuyền nhân yên nghỉ trong mồ trùng dương
Hồn thiêng nêu chí quật cường
Ngày tan giặc cộng bốn phương tìm về!

  

BÙI XUÂN CẢNH
Virginia, August 2008.

  Trần Văn Giang (ghi lại)