Cho
đến giữa thế kỷ 20, Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn
80% dân số sống ở vùng nông thôn; đa số là nông dân nghèo, tá điền làm mướn nộp
tô cho các địa chủ. Tranh chấp giữa hai thành phần nông dân và địa chủ thì hẳn
nhiên là có từ ngàn đời; nhưng không đến nỗi quá quyết liệt để đi đến những đổ
máu tàn khốc như kiểu đấu tranh giai cấp mà người Cộng Sản khích động.
Ở
miền Bắc năm 1945, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và tiếp tục các nỗ lực chiến tranh cho đến thắng lợi Điện
Biên Phủ đưa đến sự phân chia Việt Nam thành hai miền đối đầu về chính trị.
Trong khi miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam, nước Cộng
Hoà Việt Nam ra đời dựa trên lý tưởng dân chủ tự do và kinh tế thị trường.
Một
trong những khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc là sự cư xử đối với người dân của
hai chế độ cũng như các biện pháp thực thi công lý xã hội. Trong bài này, chúng tôi muốn nói đến vấn đề
đất đai, sự công bằng nhân đạo trong việc tái phân chia tài sản quốc gia để làm
giảm mức cách biệt giàu nghèo, xóa bỏ nạn cường hào bóc lột ở nông thôn.
Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc Việt
Nam
Mục Tiêu
Karl Marx, người đề ra chủ nghĩa Cộng Sản đã viết trong bản Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản (Communist Manifesto) rằng: "Cách mạng ruộng đất là điều kiện để
giải phóng dân tộc." Khi phát động chiến
dịch tại kì họp thứ ba của Quốc hội Việt Nam
Cộng Sản, Hồ Chí Minh đã
nói những lời nhân nghĩa: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí
nhân, chí nghĩa, hợp lý hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông,
trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng
thời chiếu cố đồng bào địa chủ."
Chương
trình cải cách ruộng đất ở miền Bắc – cũng được gọi là cải tạo nông nghiệp - được
mở đầu bằng chiến dịch giảm tô (1953-1954) gồm tám đợt; theo sau đó là các chiến
dịch cải cách từ năm 1954 cho đến 1956 gồm năm đợt. Mục tiêu của chương trình
này là nhằm xóa bỏ giai cấp địa chủ để chuẩn bị thiết lập nền móng vô sản
chuyên chế ở nông thôn. Đảng Cộng Sản chủ trương cách mạng triệt để xóa bỏ lối
sống và mối quan hệ cổ truyền để thay vào đó những giá trị mới và ý thức hệ của
chủ nghĩa Cộng Sản. Cho nên phải xem đó là biện pháp để củng cố sự kiểm soát của
đảng Cộng Sản chứ không phải là thưc hiện công lý xã hội qua sự tái phân ruộng
đất như ông Hồ tuyên bố.
Đối
với đảng Cộng Sản, bốn kẻ thù chính cần phải tiêu diệt theo như khẩu hiệu đề ra
là: “Trí, Phú, Địa, Hào; Đào tận gốc, trốc
tận rễ.” Không chỉ có thế, họ còn nhắm vào các tầng lớp trung lưu, trí thức,
tu sĩ các tôn giáo, và những người có quan hệ hay hấp thụ văn hoá Tây Phương.
Trong cuốn sách nổi tiếng nhan đề Từ Thực
Dân đến Cộng Sản, ông Hoàng Văn Chí, một đảng viên Đảng Quốc Tế Công Nhân
Pháp, ghi rằng có đến nửa triệu người đã bị giết chết trong cuộc cải cách ruộng
đất và các chiến dịch cải tạo của Cộng Sản.
Diễn Tiến
Từ
năm 1953, Hồ Chí Minh đã gửi sang Trung Cộng hơn 100 cán bộ để được huấn luyện.
Phía Đảng Cộng Sản Trung Hoa cũng lập ra một phân bộ chuyên trách về cải cách
ruộng đất và củng cố đảng do Trương Đức Quần (張
德 群 Zhang DeQun) cầm đầu để
chỉ dạo cho Việt Nam thi hành chính sách. Ngày 15 tháng 3 năm 1954, Đảng Lao Động
Việt Nam (tên cũ của Đảng Cộng Sản) thành lập Ủy Ban Cải Cách Trung Ương dựa
vào khuôn mẫu "thổ địa cải
cách" (1946-1949) của Trung Cộng và tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để. Ủy ban này, về mặt đảng, Hồ Chí Minh vẫn là
người phát động về tư tưởng, và sự chỉ đạo thì trong tay Tổng bí thư Trường
Chinh; nhưng về mặt chính quyền thì do sự
chỉ huy của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và sự giám sát chặt chẽ của đoàn cố vấn
chính trị Trung Cộng do Lã Quí Ba (罗贵波 Luo Guibo) cầm đầu.
Trong
hai năm 1954 và 1955, Cộng Sản Việt Nam đã thi hành tám đợt giảm tô ở 1875 xã,
và năm đợt cải cách ở 3315 xã. Họ thực hiện theo từng bước như sau:
1.-
Thành lập các đội cải cách từ 10 đến
15 người gửỉ đến phụ trách mỗi xã. Đội trưởng phải là đảng viên, có thể lấy từ
bộ đội sang, đội viên là những thanh niên, đoàn viên tuyển chọn rất kỹ trong những
người hăng say, nuôi mộng được vào đảng. Họ đến từng xã, mỗi đội viên sẽ tìm một
gia đình coi là nghèo khổ nhất để thực hiện chính sách “ba cùng” (cùng ăn, cùng
ở, cùng làm) với những gia đình này.
2.-
Thăm Nghèo, Hỏi Khổ: Sống chung thân
cận với gia đình nghèo, cán bộ đội sẽ tìm
hiểu thu thập tình hình trong xã, về những người trong xã, ai có đất cho nông dân
cày để lấy tô, ai có ăn có mặc sung sướng, ai có giao tiếp, có địa vị xã hội… Họ
sẽ chọn những thành phần đáng tin cậy để huấn luyện và kết nạp làm nhân tố mà
danh xưng là ‘rễ, chuỗi.’
3.-
Phân loại: Bước kế tiếp là phân loại
những người trong xã theo bốn thành phần chính: (1) địa chủ, (2) phú nông, (3)
trung nông cứng, trung nông vừa, trung nông yếu, (4) và bần nông, cố nông. Ủy Ban Cải Cách Trung Ương đề ra việc thi đua
và tưởng thưởng cho các đội truy tìm cho ra nhiều địa chủ để đấu tố. Cố vấn
Trung Cộng ép buộc chỉ tiêu là mỗi xã phải tìm cho ra 5% dân số để qui cho là
thành phần địa chủ. Trong cuốn Naked
Earth, bà Aileen Chang đã miêu tả cách thức mà các đội viên cải cách ruộng
đất bên Trung Hoa đã làm để chọn đủ chỉ tiêu này dù trong thâm tâm họ cũng thấy
bất bình và xót xa! Đó là đôn người trung nông nào kha khá một chút lên hàng địa
chủ cho đủ chỉ tiêu 5% ở mỗi xã. Họ không có sự lựa chọn nào khác!
4.-
Đấu tố và xử án: Sau khi gieo hạt giống
căm thù địa chủ tàn ác vào đầu nông dân, đội cái cách sẽ triệu tập tất cả nông
dân ra sân làng và thành lập một thứ “toà án nhân dân” do một đội viên chủ toạ.
Họ sẽ lôi các địa chủ ra trước toà bắt phải quì xuống để hành nhục; cán bộ đội
lẫn vào đám đông hàng trăm, hàng ngàn người kể cả nông dân từ các xã lân cận để
khích động, dấy lên sự phẫn nộ để rồi từng người sẽ đứng trước nạn nhân vạch ra
những tội ác tày đình do bịa đặt hay phóng đại lên. Ngay cả thành viên trong
gia đình như con cái, họ hàng cũng bị đẩy ra buộc tội và nhục mạ cha mẹ mình. Nạn nhân không được tự biện hộ hay có ai dám biện
hộ gìùm. Sau đó nạn nhân sẽ bị giam lại chờ phiên toà sẽ tuyên án tử hình và
thi hành tại chỗ.
5.- Chia
Quả Thực: Sau buổi đấu tố và hành quyết, dân làng đổ xô về xâu xé những tài
sản của nạn nhân từ bàn ghế tủ giuờng cho đến áo quần, nồi niêu soong chảo, thậm
chí cả cái chổi cùn, cái rế rách. Đất đai của nạn nhân thì đội lấy chia cho các
gia đình bần nông. Con cái nạn nhân bị đẩy ra bìa làng nơi một xó nào đó hay bị
đuổi hẳn khỏi làng. Sau cải cách, có đến cả triệu người miền Bắc con cái địa chủ
phải đến tận các vùng núi rừng để tránh những đối xử bất công hà khắc nơi quê
nhà.
Nạn Nhân:
Cho
đến nay, đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam chưa có công bố chính thức nào về số
nạn nhân của chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Tài liệu ngoai quốc thì cho những
con số khác nhau có từ vài ngàn đến nửa triệu.
Đài
Phát Thanh Á Châu Tự Do dựa theo tài liệu của Viện Kinh Tế Việt Nam (Vietnam
Institute for Economics), cho hay trong 3,312 phiên toà Kangaroo ở địa phương,
có hơn bốn triệu nạn nhân, trong đó 172,008 bị qui là địa chủ (như nói ở đoạn
trên); 18,738 trung nông bị gán cho tội cường hào ác bá. Đa số nạn nhân bị bắt
chết ngay tại chỗ.
Theo ký giả Gareth Porter, số nạn nhân bị giết
là từ 800 đến 2500; theo sử gia Edwin Moise, thì từ 5000 đến 15000; theo ký giả
Bernard Fall, có 50,000 người bị hành quyết từ năm 1953 đến 1955; Dựa trên tài liệu thu nhận từ Bắc
Việt Nam, sử gia Balazs Szalontai, người Mongolian viết trong bản tham luận
“Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955 -56" (Cold War
History, 2005) – cho hay có 23,748 bị hành quyết trong 1,337 phiên toà. Giáo sư
Turner Robert, trong cuốn Vietnamese
Communism: Its Origins and Development, có đoạn viết “Theo nhiều nhân chứng ở miền Bắc Việt Nam thì trong 160 dân làng, có một
người bị hành quyết. Theo đó mà tính thì cả nước có đến gần 100,000 nạn nhân.
Vì chiến dịch này diễn ra chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng, nên các học giả
có thể chấp nhận con số ước lượng 50,000 người bị giết trong chiến dịch đó.”
(Testimony from North Vietnamese witnesses suggested a ratio of one execution
for every 160 village residents, which extrapolated nationwide would indicate
nearly 100,000 executions. Because the campaign was concentrated mainly in the
Red River Delta area, a lower estimate of 50,000 executions became widely
accepted by scholars at the time).” Con số cao nhất, nửa triệu, là của ông Hoàng
Văn Chí, dựa trên tỷ lệ qui chụp địa chủ 5% trên tổng số nông dân miền Bắc lúc
bấy giờ.
Trong
cải cách, Đảng Lao Động Việt Nam chia loại địa chủ ra ba thành phần: (1) Địa chủ
ác ôn, (2) Địa chủ thường, và (3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Nhưng trong thực
tế, cả ba loại địa chủ này đều bị đấu tố và giết chết tại chỗ. Một tài liệu của
chính đảng Cộng Sản tiết lộ có 172,008 người bị qui tội địa chủ mà sau này khi
thú nhận sai lầm, họ đã cho hay trong số đó có đến 123,266 người (71.66%) bị ghép
tội oan ức. Phát biểu tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 10 năm 1956, giáo sư,
luật sư Nguyễn Mạnh Tường, cho hay nhiều nông dân là trung nông nhưng đã bị đôn
lên hàng địa chủ bởi những anh đội cải cách. Bà Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh
Long, một nhà doanh nghiệp giàu có nhất nhì miền Bắc, là người từng đóng góp hàng
trăm lạng vàng cho đảng, che giấu cán bộ, có khi nuôi ăn cả đơn vị lớn; bà cũng
có hai con trai theo kháng chiến làm đến Chính Ủy Trung Đoàn. Cố vấn Lã Quí Ba đã
thúc ép Hồ Chí Minh phải đưa bà ra đấu tố mở màn cho chiến dịch để làm gương và
tạo sự phấn khích trong nông dân. Theo ký giả Trần Đĩnh, người từng gắn bó và
viết tiểu sử cho Hồ Chí Minh, viết trong cuốn Đèn Cù thì chính ông Hồ đã ngụy
trang bằng cách bịt râu, đeo kính dâm để đến xem cuộc đấu tố giết chết dã man
người phụ nữ ân nhân của ông ta và của đảng Cộng Sản. Cũng theo Trần Đĩnh,
trong số nạn nhân của cải cách ruộng đất có khá nhiều cán bộ đảng và sĩ quan
cao cấp trong bộ đội.
Ông
Nguyễn Minh Cần, một cựu đảng viên cao cấp, cựu Phó Thị Trưởng Hà Nội đã phải
thốt với đài Pháp RFI: “Chiến dịch cải
cách ruộng đất là một cuộc thảm sát dân lành vô tội; nói theo thuật ngữ thời đại
thì quả thật đó là vụ diệt chủng kích động bởi sự phân biệt giai cấp.”
Hậu Quả
Tuy
không biết chính xác con số nạn nhân là bao nhiêu và số nạn nhân ít so với số
người chết hàng triệu trong cải cách ruộng đất ở Trung Cộng, nhưng mức độ giết
lầm quả là một thảm kịch, một vết nhơ khó tẩy rửa. Cả miền Bắc Việt Nam đã bị ám
ảnh bởi sự kinh hoàng trong hàng chục năm sau đó.
Nhà
văn cựu đảng viên Cộng Sản Trần Mạnh Hảo - là một nhân chứng sống - đã viết: “Tôi
đã chứng kiến sự hãi hùng, và tôi không thể hiểu chế độ này là thứ gì mà chỉ biết
đàn áp và hủy diệt dân chúng. Họ đã đưa người ta ra cái gọi là ‘tòa án nhân
dân’ rồi bắn chết tại chỗ mà không hề có phiên xử hay đưa ra bằng chứng tội phạm.”
(Câu này chúng tôi dịch từ bản Anh ngữ nên có thể không hoàn toàn chính xác như
lời ông Trần Mạnh Hảo)
Năm
1956, để xoa dịu sự căm phẫn của quần chúng, ông Hồ Chí Minh đã nhỏ giọt nước mắt
cá sấu mà thú nhận họ đã đi quá xa và thi hành quá tàn bạo. Cuối năm 1956, hai
mươi ngàn nông dân ở Nam Đàn thuộc tỉnh Hà Tĩnh (gần quê quán Hồ Chí Minh) đã nổi
dậy nhưng liền bị Cộng Sản đưa quân đội đàn áp thẳng tay, giết chết sáu ngàn nông
dân!
Nói
mục đích cải cách là để lấy đất của địa chủ chia lại cho nông dân, nhưng hai năm
sau (1958), đảng và nhà nước khởi động phong trào tập thể hoá nông nghiệp và công
hữu hoá công nghiệp. Hiến pháp Việt Nam Cộng Sản năm 1959 luật hoá chính sách
triệt bỏ quyền tư hữu và thay nó bằng cái gọi là ‘quyền làm chủ tập thể.’ Đất đai
ruộng vườn từ nay là tài sản của nhà nước. Tất cả nông dân bị buộc phải gia nhập
các hợp tác xã. Cuối cùng, tay trắng hoàn trắng tay! Nông dân chưa kịp vui vì
quyền làm chủ, thì lại phải trả lại đất ruộng, nông cụ để góp vào các hợp tác xã.
Họ lại trở thành người làm thuê, lần này cho chủ là ông nhà nước với lối sống đoàn
ngũ hoá, nhất cử nhất động đều làm theo các tiêu lệnh và tiếng kẻng hàng ngày. Bằng máu hàng trăm ngàn dân lành vô tội, Đảng
Cộng Sản đã thành công trong việc củng cố quyền lực, trấn áp mọi kẻ thù vừa về
chính trị vừa kinh tế.
Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Nam Việt
Nam
Mục tiêu
Chính
phủ Việt Nam Cộng Hoà theo đuổi ý thức hệ dân chủ tự do và theo chính sách kinh
tế thị trường, cổ vũ doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ cũng biết rằng sự tái phân
phối ruộng đất là biện pháp tốt nhất để giải quyết bất công xã hội đã hiện hữu
từ nhiều đời ở vùng nông thôn; nhất là trong giai đoạn chiến tranh chống Cộng Sản,
sẽ vận dụng được sự ủng hộ của quần chúng nông thôn.
Thời
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có các kế hoạch dinh diền, khu trù mật nhưng không
thành công vì sự quậy phá liên tục của du kích Cộng Sản. Đến thời Đệ Nhị Cộng
Hoà, Hiến pháp 1967 đã hứa hẹn sẽ cấp đất cho nông dân và hữu sản hoá các tầng
lớp lao động để họ thoát khỏi tình trạng phải đi làm thuê cho chủ.
Sau
chiến thắng Tất Mậu Thân, khi gần như toàn bộ hạ tằng cơ sở của Cộng Sản bị tiêu
diệt, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành hai chính sách: Người Cày Có Ruộng và
Hữu Sản Hoá Công Nhân. Chính sách thứ nhất là để xóa bớt giai cấp địa chủ ở miền
Nam. Trong cuộc họp tại Midway vào tháng 6 năm 1969, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard
Nixon đã hứa giúp thêm tài khoản cho chương trình Người Cày Có Ruộng một số tiền
40 triệu đô la.
Thực Thi
Vào
thập niên 1960, dân số miền Nam khoảng 17.5 triệu người với 80% là nông dân.
Trong số nông dân đó, có khoảng 70% là tá điền làm ruộng nộp tô cho địa chủ.
Thời Đệ Nhất Cộng Hoà:
Năm 1955, khi vừa thiết lập chế độ, chính phủ đã có chủ trương cải tổ nông nghiệp. Ngày 22
tháng 10, 1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57, tiến hành chính sách
cải cách ruộng đất. Theo Dụ 57 này, mỗi điền chủ chỉ được giữ tối đa 100 mẫu ruộng[1],
trong đó 30 mẫu trực canh, còn 70 mẫu phải cho tá điền thuê. Số đất bị truất hữu,
điền chủ được chính phủ bồi thuờng số tiền mặt bằng 10% trị giá ruộng đất, còn
lại sẽ nhận trái phiếu có lãi suất 3% trong 12 năm. Tá điền được mua ruộng tối
đa năm mẫu ta, trả góp cho chính phủ trong 12 năm. Đợt đầu, có 430,319 mẫu ruộng
của 1,085 điền chủ được mua lại; sau đó còn mua thêm 220,813 mẫu đất của Pháp
kiều để bán cho 123,198 tá điền. Các tá điền cũng có thể mua trực tiếp từ điền
chủ. Tổng cộng, chính phủ đã trưng mua 1,040,000 mẫu ruộng để cấp phát cho nông
dân 600,000 mẫu. Số đất ruộng chỉ mới bằng 10% đất canh tác ở miền Nam. Từ 1956
đến 1962 , sản lượng lúa gạo tăng gấp đôi, mức xuất cảng tăng gấp năm lần. Tuy
nhiên con số nông dân chưa được cấp đất canh tác vẫn còn khá cao.
Ngoài ra, Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn lập 169
Khu Dinh Điền, 25 Khu Trù Mật để định cư 250 ngàn dân. Đất đai được khai thác ở
các vùng này là 109,379 mẫu. Về tài trợ, năm 1957, chính phủ lập Quốc Gia Nông
Tín Cuộc để cho nông dân vay đến 4 tỷ 600 triệu đồng với lãi suất rất nhẹ và
không đòi hỏi thế chấp. Nhưng các chương trình này không hoàn tất vì có nhiều vùng
đất đai bị Cộng Sản xâm nhập quậy phá và răn đe nông dân không được hợp tác với
chính phủ miền Nam.
Thời Đệ
Nhị Cộng Hòa:
Ngày 26 tháng 3, năm
1970, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký ban hành Đạo Luật 003/60 để thực thi chương
trình “Người Cày Có Ruộng” mà An Giang là tỉnh đầu tiên được tiến hành.
Đạo
luật này ấn định các điền chủ ở các tình phía Nam được giữ lại tối đa 15 mẫu; điền
chủ các tình miền Trung ít hơn, chỉ được giữ 5 mẫu. Chính phủ bỏ tiền ra mua phần
đất dư để chia lại cho tá điền và nông dân nghèo. Đối với những nông dân trước đây
được Việt Cộng cấp đất, chính phủ hợp pháp hoá quyền tư hữu và cấp bằng khoán
cho họ luôn. Để thực hiện chương trình này, chính phủ đã chi ra 200 triệu đô la,
trong đó có 40 triệu do Hoa Kỳ yểm trợ.
Đến
cuối năm 1973, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã trao bằng khoán chủ quyền 3.188
triệu mẫu đất canh tác cho hơn 858 ngàn nông dân. Số đất cấp phát này bằng 40%
tổng diện tích đất canh tác ở miền Nam. Các chính sách nông nghiệp đã làm thay
đổi bộ mặt và sinh hoạt ở nông thôn; nó góp phần đáng kể vào việc phát triển
kinh tế ở miền Nam dù giữa lúc quân dân phải chiến đấu chống sự xâm lăng của Cộng
Sản Bắc Việt.
Chương
trình đã giúp cho nông dân – là tầng lớp thiệt thòi nhất trong xã hội – thoát
khỏi cảnh nghèo khó, làm thuê mà tiến lên hàng trung lưu ở nông thôn. Trong ba
năm từ 1969 đến 1971, sản lượng nông nghiệp tăng lên 30% song song với sự gia
tang điều kiện sống của nông dân. Trên đồng ruộng miền Nam, máy móc cơ giới đã
thay dần sức người. Trong các năm kế tiếp, sản lượng lại tăng gấp đôi năm trước;
có nơi tăng gấp bốn do gieo cấy loại lúa Thần Nông. Trung bình, một nông dân vùng
đồng bằng Cửu Long thu gặt 24 tấn lúa mỗi năm; thu nhập đạt đến hai triệu đồng/năm
(khoảng 5500 đô la vào thời đó).
Tại
buổi lễ phát động chương trình, Tổng Thống Thiệu tươi cười nói: “Đây là ngày hạnh phúc nhất trong đời tôi.”
Báo Mỹ New York Times cũng ca ngợi: “là
chương trình cải cách ruộng đất của phe không Cộng Sản đầy tham vọng và tiến bộ
nhất trong thế kỷ 20.”
Khen
là phải! So với cải cách của Cộng Sản mà đưa đến cái chết của hai mươi triệu
người ở Liên Sô thời Stalin; hơn năm triệu người ở Hoa Lục thời Mao Trạch Đông,
nửa triệu ở miền Bắc thời Hồ chí Minh; thì hai cuộc cải cách ở miền Nam diễn ra
êm thắm thể hiện tính cách nhân đạo. Không một địa chủ, điền chủ nào nào bị đấu
tố, buộc tội, xử án; không co những màn đánh đập, la ó; không một giọt máu nào
rơi xuống! Cùng là người Việt Nam chung văn hoá, truyền thống; nhưng miền Nam đánh
động vào lương tri trong khi miền Bắc khai thác thú tính qua sự kích thích hận
thù.
Nhiều
nhà quan sát quốc tế đã cho rằng chính phủ miền Nam đã khá trễ khi nhận thức tầm
quan trọng của cải cách ruộng đất mà để cho đến năm 1970 mới thi hành. Do đó,
hiệu quả kinh tế và tâm lý dù cao, cũng không kịp làm thay đổi cục diện quân sự.
Cải Cách Ruộng Đất sau 1975
Sau khi chiếm được miền
Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quá vội vàng thi hành những chính sách nhằm thay
đổi tận gốc rể kinh tế và nông nghiệp ở miền Nam bằng biện pháp hợp tác hoá toàn
diện. Sự kiện này, do không hiểu tâm lý miền Nam - từng sống trong chế độ dân
chủ tân tiến - nên đã mang lại nhiều xung đột giữa nhà cầm quyền và người miền
Nam. Cộng Sản đã chật vật nhưng không thành công được trong nhiều năm đầu tiên
sau khi thống nhất cả nước. Chưa kể chính sách mới của Cộng Sản đã tạo ra một
giai cấp cán bộ nhiều đặc quyền, đặc lợi và đám người này càng lạm dụng để vơ vét thêm đất
đai tài sản cho họ thay vì lo đến đời sống đa số dân nghèo.
Từ 1975 đến 1985, dân
miền Nam trải qua một nạn khan hiếm lương thực trầm trọng nhất trong lịch sử. Để
cứu vãn cho chế độ Cộng Sản khỏi suy sụp, tại Đại Hội toàn quốc lần thứ Sáu, Đảng
Cộng Sản Việt Nam phải tuyên bố cải cách
kinh tế bằng việc chuyển hoá từ Kinh tế tập trung sang cái gọi là “Kinh tế Thị
Trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”!
Trong các tội ác diệt
chủng nhân loại trong thế kỷ 20 từ đông sang tây, chiến dịch cải cách ruộng đất
của Cộng Sản Liên Sô, Trung Cộng, Việt Nam không kém so với Holocaust của Đức
Quốc Xã về sự man rợ cũng như tầm vóc.
Đã hơn 70 năm qua, những chi tiết về cải cách
ruộng đất ở miền Bắc vẫn còn là những điều nhậy cảm mà ít ai dám nhắc tới. Tuy
bên ngoài người ta cố gắng giữ thái độ ôn hoà, trầm lặng; nhưng sâu lắng bên
trong trái tim những người miền Bắc, nỗi hận còn chất chứa. Họ mong chờ nhà cầm
quyền Cộng Sản lên tiếng thừa nhận tội ác và có lời sám hối tạ tội với thân nhân
của hàng trăm ngàn gia đình những người bị họ thảm sát năm xưa.
Đỗ Văn Phúc
Tham Khảo:
Dang
Phong. The History of the Vietnamese
Economy. Vol. 2, Institute of Economy, Vietnamese Institute of Social
Sciences, 2005.
Fall, Bernard. The Viet Minh Regime, Government and Administration in the Democratic
Republic of Vietnam. Greenwood Press, Connecticut, 1975.
Hoàng Văn Chí. From Colonialism to
Communism: A Case History of North Vietnam. London: Pall Mall, 1964.
Marx, Karl and
Friedrich Engels. The Communist Manifesto. Penguin Classic, 2015.
Munro, Don, Marx’s
Theory of Land, Rent and Cities. Edinburgh University Press, 2022.
Nguyễn
Văn Canh. “Đấu Tố và Hình Phạt trong Cải Cách Ruộng Đất mà Hồ Chí Minh Thi Hành
vào Đầu Thập Niên 1950 tại Bắc Việt.” August 17, 2024.
Nguyen Ngoc-luu. Peasants, Party and
Revolution the Politics of Agrarian Transformation in Northern Vietnam
1930–1975. University of
Amsterdam, 1987.
Tô Hoài. Ba Người
Khác. Nxb Đà Nẵng, 2007
Trần Đỉnh. Đèn Cù.
Người Việt Book, 2004
Turner, Robert F. Vietnam
Communism: Its Origins and Development. Hoover Institution Publications,
1975.
[1] Một
mẫu (hectare) bằng 10,000 mét vuông hay 2.471 acres (43,560 sqft) theo đơn vị đo
lường của Mỹ.