Sunday, April 9, 2023

MỘT CHỐN ÐI VỀ

Hàng năm, tuy không hẹn trước nhưng chúng tôi cứ nhắm chừng con heo đất hơi nặng là lật đật đập ra mua vé lơn tơn về Việt Nam, riết rồi cũng quen, không về thì thấy ray rứt bồn chồn, mà về thì “trăn trở bức xúc” đủ thứ chuyện….  Biết vậy mà cũng về!

Sàigòn đầy bụi và nắng nóng, thành phố lúc nào cũng hầm hầm như cái mặt tên Hải quan ở cổng phi trường Tân Sơn Nhất. Taxi chạy qua những con đường lớn chật cứng xe và người ngột ngạt. Thú thật tôi chỉ muốn về nhà thật nhanh, ít ra ở đó tôi cảm thấy sự bình yên hơn trong không khí thoải mái của gia đình, người thân.

Má tôi lui cui trong bếp. Lưng bà như còng hơn trong dáng đi chậm chạp của đôi dép kéo lê, gần 90 tuổi nhưng bà vẫn muốn vào bếp nấu cho tôi nồi canh chua bông so đũa: cái món mà tôi khó tìm thấy khi bôn ba ở xứ người “Má biết mày thèm ….”.  Tôi ôm bà ấm áp như hồi nhỏ, thấy ánh mắt bà vui hơn.

Má tôi quê Xẻo Gừa, lên Sàigòn sống gần 60 năm nay nhưng bà vẫn giữ y tánh nết chơn chất của một phụ nữ miền Nam, hiền lành nhân hậu, lúc nào cũng chăm lo cho gia đình, thương con quý chồng. Tôi dùng chữ quý bởi vì trong cung cách đối xử với Ba tôi lúc nào cũng tương kính như tân, phải nói là Bà tâm phục khẩu phục ông lắm… Tôi nhớ hình ảnh bà sáng nào cùng bắt cái ghế đẩu ngồi cạnh giường ông, kể chuyện con cái, chuyện nhà cửa chợ búa, chuyện cô Ba, chú Bảy, chuyện hồi đó ở dưới quê…

Ông nằm trong mùng không biết thức chưa hay còn ngái ngủ nhưng thỉnh thoảng ông lên tiếng vài câu dặn dò nhắn nhủ việc gì đó, nghe tiếng má ừ hử nhỏ nhẹ đều đều như vậy quanh năm suốt tháng. Ngày nào Má không ngồi ở cạnh giường ông thì tới phiên Ba lo lắng ngồi bên cạnh giường bà để biểu bà ăn cháo uống thuốc…

Cảnh đầm ấm đó đám con thấy riết cũng quen mà không thắc mắc, nhưng khi lớn lên có vợ có chồng, chúng tôi cũng ảnh hưởng ít nhiều cái tình gia đình êm đềm đó trong cuộc sống riêng tư. Và tôi đâm ra ngạc nhiên tự hỏi “Ủa, sao hồi đó Ba Má không ngủ chung giường, gác chân gác tay và nói hằm bà lằng chuyện như chúng tôi bây giờ cho thân mật hơn?”.

Cái tình nghĩa vợ chồng khi về già có lẽ trầm lắng sâu sắc hay chăng?  Tôi chưa quá già để nhận ra chân lý sống đó, nhưng tôi biết khi một chiếc dép bị đứt quai thì chiếc kia coi như bỏ thùng rác. Ba tôi mất  trước và dĩ nhiên Má tôi buồn biết bao nhiêu khi ở lại một mình…

Đám con cháu lại trở về sống vây quanh để bà không thấy lẻ loi. Cuối tuần là bà nấu món ăn ngon, cả bầy xúm lại ăn, xúm lại kể chuyện này kia cho Má tôi nghe, bởi vì Má tôi không đi đâu ngoài khoảng cách 100m từ nhà đến chợ mỗi ngày, và cái Ti-vi ở phòng khách giúp bà giải khuây bằng những bộ phim dài nhiều lập. Mấy chị em tôi ai cũng có chuyện để kể Má nghe y như hồi xưa bà ngồi thủ thỉ với Ba mỗi sáng..

Câu chuyện đôi khi cũng thường, lượm lặt trên net, trên báo nhưng qua nhỏ My thì nó thêm mắm giặm muối tăng thêm phần hào hứng khiến ai cũng cười lăn và người cười nhiều nhất là Má, bởi vì Má tôi luôn tin đó là chuyện có thật. Bà chưa bao giờ biết về internet nên bà đâu thể ngờ trên đó có cả một kho truyện tiếu lâm. Người ta “đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười”. Còn bọn tôi chỉ mong đổi vài chục năm còn lại để Má sống vui với con cháu.

Trong nhà tôi là đứa đi xa nhất, chuyến đi giống một phép lạ mà mọi người không nghĩ rằng tôi có thể bay dễ dàng như vậy. Chị em ai cùng mừng cho tôi nhưng Má thì im lặng. Tôi biết bà không vui khi có một chim bay khỏi tổ, dù con chim không còn non nớt yếu đuối như Má nghĩ.
  Má tôi có 8 người con, 6 gái 2 trai. Các con lần lượt có vợ có chồng ra riêng, sót lại 3 đứa con gái quá lứa. Nhà tôi trong hẻm nhỏ gần chợ Nguyễn Tri Phương, gia đình dọn về đây hơn 40 năm nên cây mận Má tôi trồng trước nhà xum xuê tàn, những trái nhỏ xíu chát ngầm rụng đầy sân để sáng nào bà cùng còng lưng quét. Nhỏ My làm hướng dẫn viên du lịch, dáng vẻ trẻ trung hoạt bát, đi đây đó hoài nhưng vẫn bị “chống ề” vì tuổi Dần. Một hôm nó về nói với Má tôi «Thầy bói nói nhà mình bị cái cây mận này ếm nên con gái khó đi lấy chồng» và nó đề nghị đốn bỏ.

 Má tôi chỉ cười hiền «để cho nó mát mà». Nhưng sau đó ít lâu Bà kêu người tới cưa gốc mận, không biết bà tin lời con My hay Bà quét sân hoài nên cũng mệt. Có điều vài tháng sau thì con My lấy được chồng. Nó lại càng tin thầy bói hơn nữa. Riêng Má tôi buồn vì vắng cái miệng tiếu lâm ồn ào của nó. Tuy nhiên bà vẫn mua con gà về cúng vì trước đây Bà có vái «gả được con cọp My» bà sẽ cúng tạ ơn. Tấm lòng bà Mẹ thương con đôi khi cũng mâu thuẫn đến lạ lùng .
  Hôm nghe tôi nói sẽ theo chồng qua Mỹ, Má tôi ngồi im một lúc rồi hỏi «Xứ đó ở đâu? Xa hôn? Xa cỡ nào?». Tôi lấy chiếc đũa cắm vào trái cam và xoay vòng, giải thích «Xa lắm Má à , nó ở nửa vòng trái đất. Bên này Má ban ngày, bên Mỹ là ban đêm». Bà có mấy người bạn trong xóm cũng đi Úc, đi Canada, lâu lâu về thăm, ai cũng trắng trẻo khỏe mạnh, họ tặng bà mấy hộp thuốc bổ. Bà thấy vui vui và không cần biết nó xa cỡ nào. Nhưng bây giờ thì bà quan tâm tới điều đó bởi vì con gái bà sắp ra đi, đến một đất nước xa lạ mà cả đời bà không thể nào hình dung được.
 Tôi qua Mỹ được vài năm rồi cùng nhớ Má lót tót trở về. Mọi người tụ lại nhà Má đủ mặt dâu rể cháu chắt, ăn uống nói cười vang rân, tôi lại kiếm những câu chuyện vui lạ đó đây trên bước đường rong ruổi của mình để kể cả nhà nghe. Trên chuyến bay có một bà tuổi chừng 90, bà khỏe lắm nói cười còn minh mẫn, chắc bà trở về Việt Nam thăm con cháu, bà đi một mình dưới sự chăm sóc đặc biệt của một nhân viên biết nói tiếng Việt.
 Khi xuống máy bay, bà chống gậy lững thững ra ngoài, đứng giữa sân có đông nghẹt người đi đón thân nhân, bà gõ cồm cộp cây gậy xuống sân và nhìn quanh hỏi to «Thằng Hai đâu ?» Một mái đầu bạc trắng nhô lên la lớn «Dạ, con đây Má» khiến ai cũng bật cười và cảm động nhìn theo. Má tôi nghe chuyện cũng cười «Bà đó giỏi quá ha». Cả nhà chỉ chờ có vậy để thuyết phục Má đi du lịch cho biết đó đây. «Thôi đi. Nó nói tiếng Tây tiếng U, Má làm sao hiểu, ở xóm này gặp người quen mỗi ngày cũng vui vậy. Coi Ti-vi cũng biết chỗ này chỗ kia vậy». Các con biết tánh Má, bà quen quanh quẩn lũy tre làng….
  Trong lúc soạn tìm một số giấy tờ cá nhân tôi gởi Má cất trong ngăn tủ, chợt một chai nước hoa khô queo và cây son sẫm màu từ đời nào lăn ra sàn… Tôi cầm lên săm soi và thấy lòng mình như rưng rưng có lỗi “Cái này là mỹ phẩm của Má đây sao?” Bấy lâu nay tôi vô tình quên mất Má cũng có lúc cần những món đồ đơn giản như vậy cho mỗi lần đi tiệc tùng cưới hỏi. Chị Hai mua bóp đầm, chị Ba may áo dài, con Nga mua sợi dây chuyền, đôi bông cẩm thạch, nhỏ My, út Lan thì giày dép quai nhung, nhưng không đứa nào nhớ tới gương mặt Má với một chút son phấn tươi tỉnh của tuổi già.
 Qua Mỹ tôi thấy có nhiều bà già cỡ tuổi Má, áo quần sang trọng, môi son đỏ thắm. Có bà còn xâm mắt, cắt mí trông như tài tử Hollywood, sáng nào cũng đứng đợi xe bus đi Casino ăn chơi thư thả. Còn Má tôi quen sống giản dị quê mùa nhưng khi đám tiệc với mấy bà bạn thị thành chắc bà cũng cần một chút trang điểm. Cây son và chai nước hoa này ai đó đã tặng bà lâu lắm rồi, nó cũ mốc… Mỗi lần về nước, tôi hay tặng bạn bè những thỏi son, nước hoa hay Lotion nhưng không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện tặng Má tôi chai dầu thơm. Nghĩ lại thấy mình đáng trách hết sức, tôi nhớ tới câu thơ viết về Mẹ:
        “Đừng để một ngày kia Mẹ mất đi rồi
mới giật mình khóc lóc
Dòng sông qua đi có trở lại bao giờ
Ta làm thơ cho bao người con gái,
Có khi nào ta làm thơ tặng Mẹ ta không?…
 
Chắc ông cũng ray rứt ân hận như tôi bây giờ khi cầm thỏi son sạm màu thời gian của sự vô tình bạc bẽo. Chuyện đơn giản vậy mà tôi cứ thấy nao nao sốt buổi. Má không biết chuyện này nhưng tôi biết, nghĩ bụng mình nên làm cái gì đó may ra còn kịp để Má vui. Tôi lục trong hành lý ra một chai Chanel mới tinh, một mớ son phấn mà con gái tôi làm quà tặng hôm Mother’s Day (bởi vì nó biết tôi điệu!) lẳng lặng để vào ngăn tủ của Má. Trong mắt chúng tôi, hình ảnh Má vẫn luôn đẹp.

Má tôi thích đi chợ mỗi ngày, thường thì bà thức rất sớm, đi dạo một vòng quanh chợ: người bán người mua lâu đời quen mặt nên gặp nhau ai cũng cất tiếng mời chào. Đồ ăn lúc nào cũng đầy tủ lạnh nhưng có lẽ thấy Má dễ tánh nên nhiều người nài nỉ ép mua, thậm chi mang tới tận nhà đủ thứ từ quầy dừa tươi tới con gà, ký thịt… Chúng tôi cứ dặn Má hoài, ăn không có bao nhiêu đừng mua nhiều quá, thằng em tôi cằn nhằn «Má làm như chợ sắp đóng cửa cả tháng». Má chỉ cười nói «để dành nấu cho tụi bây ăn, thà dư còn hơn thiếu». Má ăn mỗi bữa chỉ có lưng chén cơm và nửa khứa cá kho nhưng cái lo thiếu ăn thiếu mặc cho chồng con có lẽ ngấm vào máu Má từ thuở tản cư chạy giặc tới bây giờ…

Tôi giúp Má để dành thức ăn đông lạnh như bên Mỹ, rửa sạch, để ráo rồi ướp gia vị, phân loại thịt cá ra từng bọc riêng để vào ngăn đá. Tôi viết chữ to để Má dễ phân biệt; gói này là thịt bò xào sả ớt, gói này là tép nấu canh, gói này là cá lóc kho tiêu. Vậy mà vài hôm sau lại thấy Má lục lọi kiếm gì đó trong tủ. Tôi kêu lên «Má, con viết chữ trong đó rồi má. Má đọc sẽ thấy». Má làm thinh không nói.
 Hùng kéo tay tôi rù rì «Chị quên là Má mình không biết chữ sao». Tôi lại ngớ người ra ân hận. Trời ạ! Sao mà tôi ngu ngốc thế. Người không biết chữ có lẽ là tôi chớ không phải Má. Tôi dốt đến độ vô tâm không hiểu chữ MẸ phải viết hoa như thế nào cho đẹp. Má tôi quê mùa chơn chất, một chữ bẻ đôi không biết mà nuôi tám, chín đứa con ăn học đàng hoàng… Tôi xót xa như thể mình phạm một lỗi nặng với Má mà không biết làm sao sám hối.

Nhiều người hay đợi rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan mới lật đật đi Chùa tụng kinh báo hiếu, cài bông hồng trắng bông hồng đỏ tùm lum trên ngực áo; thay vì mỗi ngày mua một món ngon mà Má thích ăn, kể một chuyện vui cho Má cười, chở Má đi thăm người bạn thân ở đâu đó, nắm chặt tay Má mỗi khi Má ngồi im buồn rầu… Tôi nghĩ cũng là cách báo hiếu cho đấng sanh thành.

Đôi khi trong cuộc sống tất bật, ta mải mê đuổi theo công danh cơm áo, chỉ chăm chăm lo cho mái ấm riêng tư của mình, mong có ngày nghỉ để đưa cả nhà đi chơi mà quên rằng có Cha Mẹ già nua lẩm cẩm đợi mình ghé thăm cuối tuần. Nghe tiếng Chùa này to, Chùa kia đẹp, hăm hở đi viếng lạy mà quên mất có một Đấng Phật Mẫu đang nằm ở dưới lầu chờ con thăm hỏi nhưng con vẫn thờ ơ đi qua…
 
 “Mỗi mùa Xuân qua, Mẹ tôi già thêm một tuổi… Mẹ già như chuối chín cây, gió lay Mẹ rụng con sẽ mồ côi”. Chị Hai tôi vốn mau nước mắt khi nghe bài hát này. Tôi thì cố thu xếp để mỗi năm trở về bên Má. Đâu ai biết được cơn gió nào bay ngang vô tình…
 
Hạnh phúc thay cho những người bạc đầu mà còn có Mẹ để kính để yêu. Cũng như tôi may mắn còn Má trong đời để có nơi chốn trở về yên ổn giữa muôn ngàn bon chen mệt mỏi.
 Ngọc Anh


Trời vào thu, Đại Ngu buồn lắm em ơi ..

Dương Tự Lập

2-4-2023

(Thế hệ một thời đi qua vòm trời vàng son Việt Nam Cộng Hòa)

Trước đó đã có, nhưng rầm rộ hơn phải được tính từ đầu năm 2004 khi ông cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ do được những tay “bác sĩ” Cộng sản tài tình kết nối “khúc ruột dư” của ông trở về Việt Nam thành “khúc ruột Thừa ngàn dặm”.

Năm kế tiếp 2005 là lão nhạc sỹ Phạm Duy, người có số phận quá tam ba bận. Kháng chiến chống Pháp ông bỏ chiến khu về Thành, chia cắt hai miền ông bỏ Thành Hà vào Nam, Bắc thâu tóm Nam ông bỏ Nam chạy sang Mỹ. Ba mươi năm mang kiếp sống của kẻ lưu vong.

Từ đó đám chống Cộng xôi thịt bên Mỹ như bọn Nguyễn Ngọc Lập, Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Phương Hùng… theo gương ông Kỳ từ Mỹ ào ạt trở về, và cũng đều giống nhau, khi đặt chân xuống sân bay, bọn chúng nước mắt lưng tròng nức nở nghẹn ngào, ân hận, tự nhận đã một thời lầm đường lạc lối, đầy mình tội lỗi đối với đất nước non sông.

Tiếp nối theo có đám ca sĩ Việt ở Mỹ cũng rầm rộ kéo nhau về “kiếm ăn” bởi ở Mỹ thị trường âm nhạc ấy đã hết… ăn. Kiều bào ta rải rác khắp nước Mỹ thời điểm này khoảng hai triệu người. Thế hệ thích nhạc xưa ngày một thưa thớt, trong khi ở Việt Nam một trăm triệu dân, lượng khán giả háo hức đón nhận dòng nhạc vàng, Bolero này còn thịnh hành, còn đông lắm. Thôi thì sống đâu cũng là sống, cũng vẫn phải làm, vẫn phải tồn tại. Chuyện cơm áo gạo tiền gắn liền sinh mạng.

Hơi phiền là các ca sĩ này cứ tưởng bở, được hát những bài hát của họ tự chọn thoải mái như trên sân khấu Mỹ, Pháp, Úc… Như trên sân khấu quê nhà của thời vàng son Việt Nam Cộng hòa còn tồn tại. Họ được trở về Việt Nam hành nghề đã là một “đặc ân lớn” của Chính phủ, của Đảng phẩm chất, trí tuệ, cùng lòng bao dung độ lượng nhân ái dành cho dân và vì dân. Nếu không phải Đảng Cộng sản Việt Nam thì chẳng có cái Đảng chó nào trên thế gian này vĩ đại, giầu lòng chắc ẩn hơn.

Nào là Chế Linh, Thanh Tuyền, nào là Phương Dung, Giao Linh, nào là Hương Lan, Tuấn Vũ, rồi Khánh Ly, Tuấn Ngọc… ùn ùn theo nhau kéo về hát trên sân khấu quê nhà hợp hòa dân tộc. Tất cả các ca sĩ này có một số phận na ná giống nhau, tiền sử của họ đều bị khép tội phản động, bỏ chạy vào ngày “Đất nước trọn niềm vui” 30-4-1975. Họ trở thành thuyền nhân (Boat people) lênh đênh biển cả. Mạng họ đào hoa nên chưa bị sa vào ruột cá. Đến nay tuổi của họ cũng kha khá là cao. Ông Đỗ Phủ cười xếp tất cả loại này vào bọn “người xưa nay hiếm”.

Chương trình của họ vé đã được bán hết, đang chuẩn bị trình diễn, hoặc diễn hát giữa chừng mà lỡ có bị cúp mất điện, tắt đài thì chỉ là chuyện hài Xã hội chủ nghĩa, chuyện muỗi. Lỗi này nếu truy xét nguyên nhân thì đều do từ dân xướng ca phạm luật chơi, đi sai đường hoặc hát chệch hướng chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương.

Xin nêu mấy trường hợp mới xẩy ra đối với nhóm ca sĩ đã trải qua chế độ Việt Nam Cộng hòa trở về hát trên quê nhà thời gian gần đây để ta suy ngẫm.

Chế Linh gốc người Chăm, từng sáng tác và hát cho lính “Ngụy quân, Ngụy quyền”. Tuổi trẻ vô Sài Gòn nói tiếng Việt chưa sõi. Bắt đầu nổi tiếng từ bài hát đầu tiên “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương. Từng bị chế độ Cộng sản bỏ tù rồi vượt biên thoát nạn. Ra hải ngoại, đứng trên sân khấu Thúy Nga Paris by night dám đóng vai Vua Champa Chế Bồng Nga, vị vua vĩ đại cuối cùng của Quốc vương Chăm vì sau khi ông tử trận năm 1390 khép lại lịch sử cường hùng, người sau thế ông không ai hơn được. Nước Chăm cũng bị nhà Hồ Đại Ngu đánh chiếm giang sơn dần, mất hết đất đai thịnh vượng và về sau bị xóa sổ hoàn toàn.

Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngày ấy đã đăng hình ông “Vua Chế Linh” trong bộ áo bào uy nghi lẫm liệt và có hẳn một trang dài luận tội Chế cực kỳ phản động, dám gợi lại một triều đại đã qua. MC Nguyễn Ngọc Ngạn thì đùa tếu, Chế là người vô tổ quốc, người nước ngoài nói hai thứ tiếng. Nay cho về lại Việt Nam hát là hồng phúc rồi, nếu lỡ như có xẩy ra sự cố chi chi đó khi chuẩn bị trình diễn tại Thủ đô Hà Nội như hồi trung tuần tháng 11 năm 2022 thì chỉ là do phúc của Chế hết hồng mà thôi. Dẫu có thế nào thì Chế cũng đừng oán than chế độ ưu việt đãi ngộ cho Chế trở về, bởi kết cục nó tất phải thế.

Khánh Ly làm cả một chương trình show tại Đà Lạt cuối tháng 6 năm 2022 không sao, ngứa nghề tương thêm bài “Gia tài của mẹ” (Trịnh Công Sơn sáng tác):

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm đô hộ giặc Tâу

Hai mươi năm nội chiến từng ngàу

Gia tài của mẹ để lại cho con …

Gia tài của mẹ một rừng xương khô

Gia tài của mẹ một núi đầу mồ…

Gia tài của mẹ một nước Việt buồn”…

Tắt điện. Cấm hát, về nước Mỹ mà hát. Giá như lúc đó nữ ca sĩ này hứng lên hát: “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên), hay “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” (Cao Việt Bách), hoặc “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” (Trần Kiết Tường), “Đất nước trọn niềm vui” (Hoàng Hà) … chắc chắn Khánh Ly còn được hát, hát nữa, hát mãi, hát tẹt ga, ca tẹt sức. Thậm chí sẽ được hát khuyến mại, hát dưới ánh điện sáng trưng, hát tưng bừng như chưa bao giờ được hát.

Hỏng rồi! Giặc Tây thì còn được chớ sao lại có giặc Tàu ở đây? Sao lại nội chiến, bọn chúng ông “đánh cho Mỹ cút đánh Ngụy nhào” kia mà, phải nói ngoại chiến chứ, nội chiến cái con khỉ tiều, chẳng hiểu gì về điện. Xương khô nào đầy mồ. Việt nào là Việt buồn, không thấy chúng ông suốt ngày vui như có Bác, sướng như được sống bên lăng Người đó thây. Tắt, biến.

Nói vui vậy thôi chứ gì thì gì ca sĩ Khánh Ly vẫn đáng khen bởi bà dũng cảm “Hát trên những xác người” (Trịnh Công Sơn) của một trời tóc tang Mậu Thân Huế 1968 bị Cộng sản tàn sát:

“Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người

Tôi đã thấy, tôi đã thấy,

Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá.

Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người

Tôi đã thấy, tôi đã thấy,

Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”.

Thể hiện nhạc phẩm nào thì Khánh Ly cũng rất tôn trọng tác giả cùng lời ca trong bài hát. Dẫu có bị Ban Tuyên giáo đuổi về lại nước Mỹ thì bà cũng nên vui vẻ. Không vì thế mà danh của bà sứt mẻ mòn hao.

Khánh Ly có chung số phận đắng cay với hơn một triệu người dân miền Nam đúng ngày “Đất nước trọn niềm vui” ấy, Ly chạy ra biển, Ly biến sang Mỹ. Trên sân khấu tự do thân hình gầy gò khô héo, Ly hát rắt réo : “Đêm chôn dầu vượt biển” (của Châu Đình An) nghe đau nhói:

Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn

Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương

Anh chôn, chôn mối tình chúng mình

Gửi lại đây trăm nhớ ngàn thương

Tạm biệt… nước non!

Rồi Ly lại hát: “Một chút quà cho quê hương” của (Việt Dzũng) sao tang tóc hãi hung:

Con gởi về cho cha một manh áo trắng

Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây

Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy

Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình…

Cả tác giả lẫn người hát đều là nạn nhân, thuyền nhân, chứng nhân trong cuộc chiến cốt nhục tương tàn, tiêu tan đất nước. Nên Ly thả hồn mình vào lời ca thổn thức, nhói nhức tâm can, chứa chan nước mắt, đau thắt con tim.

Cũng giống Chế Linh, Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngay sau đó có bài viết đầy trang về bà. Vạch trần bộ mặt phản quốc, tiểu sử Lệ Mai (tên thật của Khánh Ly) còn gọi Mai “đen” sinh ra và lớn lên trên phố Hàng Bông – Hà Nội. Đích thị gốc người Tràng An thanh lịch. Theo mẹ di cư vào Nam năm 1954 khi còn tuổi nhỏ lên chín lên mười, rồi trưởng thành người ca sĩ trong chế độ Ngụy Sài Gòn bơ thừa, sữa mứa của Mỹ.

Lịch sử ở đâu? Lịch sử chính là đây? Trong ca, văn, nhạc, họa chốn này… Thế hệ sau ta có hiểu nổi sao lại phải vượt biển? Sao lại phải chôn dầu mỗi nơi một chút, sao lại phải chôn lén lút giữa đêm đen. Phải gom tới bao nhiêu hộc dầu như thế mới đủ được cho ghe, cho xuồng chạy ra hải phận Việt Nam.

Sao đất nước văn hiến, văn vật mà cứ tối đen như mực, nào là “Tắt đèn”, tiểu thuyết Ngô tất Tố. Sau “Đêm đông” nhạc phẩm Nguyễn Văn Thương, đến “Đêm hội Long Trì”, tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng, “Đêm chôn dầu vượt biển” ca khúc Châu Đình An, “Cái đêm hôm ấy… đêm gì” bút ký Phùng Gia Lộc, “Đêm giữa ban ngày” hồi ký Vũ Thư Hiên, “Đêm dày lấp lánh” chính luận Nguyễn Thanh Giang… Ôi đất nước tôi, triền miên nghe nỗi đau của mẹ: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Ôi đất nước tôi, những kẻ biệt xứ xa xôi, lòng hằng mong giản đơn thôi “Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình”.

Ngỡ đất nước thanh bình nên bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ muốn gửi nắm tro tàn của mình trên quê hương vào cuối đời như mơ ước. Khi cầm quân chống Bắc Việt ông Tướng cao bồi này đã đại bại, lúc nhắm mắt ông Kỳ còn thảm hại hơn. Ông ta phải chết ở nước ngoài. Nghe bảo cô con gái ông ở Mỹ có đi nói khó với mấy chùa người Việt bên đó nhờ ký gửi nắm tro cốt của cha mình họ mới chịu. Còn nhạc sĩ Phạm Duy (Phạm Duy Cẩn), người Hà Nội “xịn” trăm phần trăm luôn, sinh tại phố Hàng Cót, sống chỗ phố Hàng Dầu:

Nhà tôi ở phố Hàng Dầu

Số nhà năm bốn (54) đứng đầu… du côn” (Hồi ký)

Trước khi nhắm mắt, ông lấy làm tiếc là nhiều tác phẩm của mình còn bị cấm. Hai trường ca chưa được cấp phép “Con đường cái quan” và “Mẹ Việt Nam”. Ông nhận thấy hoàn toàn thất bại khi người Việt còn chưa thực sự hòa hợp hòa giải cho dù đất nước đã thống nhất từ lâu.

Sau năm 1975 các vở kịch “Lá sầu riêng” (Kim Cương), “Đời cô Lựu” (Trần Hữu Trang), “Nửa đời hương phấn” (Hà Triều-Hoa Phượng)… tràn ra, dẹp dần các đoàn kịch Bắc. Gần nửa thế kỷ sau dòng nhạc vàng – Bolero của các nhạc sĩ miền Nam lan tỏa khắp bản làng thôn quê nước Việt. Thậm chí các cuộc thi Bolero bao giờ cũng được đón nhận người thi, người xem đông đảo, hoàn hảo, hào hứng, sôi nổi nhất. “Tình bơ vơ” (Lam Phương), “Xuân này con không về” (Trịnh Lâm Ngân), “Nỗi lòng người đi” (Anh Bằng), “Hai mùa mưa” (Lê Minh Bằng), “Trăng tàn trên hè phố” (Phạm Thế Mỹ), “Hoa trinh nữ” (Trần Thiện Thanh) …

Người nặng lòng gìn giữ phát huy di sản “tàn dư văn hóa đồi trụy” này ở Hải ngoại, công lớn nhất phải nhắc tới cố Giáo sư Tô Văn Lai (To Lai Peter) 1937 – 2022. Vượt biên sang Pháp cuối năm 1976, từ hai bàn tay trắng sáng lập gây dựng nên hãng băng dĩa Thúy Nga Paris, hãng băng dĩa lớn nhất của người gốc Việt ở hải ngoại, mang tên – Trung tâm Thúy Nga.

Ngày ông mất báo chí trong nước im hơi lặng tiếng. Nghe nói cô con gái ông là Tô Ngọc Thủy (Marie To) thay cha đem chương trình Thúy Nga về trình diễn lởn vởn mấy quốc gia châu Á sát Việt Nam như Singapore, Bangkok-Thái Lan. Người Việt mua vé bay sang xem đông như ngày hội. “Khúc ruột đặc biệt” ngàn trùng cách trở của dân tộc không được kết nối. Tội.

Rút ra sự thật bẽ bàng hôm nay và mãi muôn sau lời khẳng định chắc nịch của ông Tuyên giáo mẫn cán Trần Long Ẩn, Ủy viên Thường vụ Hội Nhạc sĩ Việt Nam: “Toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật miền Nam trước năm 1975 là độc hại. Cần xóa bỏ hết”. Sặc mùi tanh tưởi, Nhổ rồi Liếm đã thành căn bệnh mãn tính của ban bệ này.

Dẫu sao mấy ca sĩ trên đây nói gì thì nói vẫn còn tư cách, giấy rách mà giữ được lề chứ cái nhà ông thợ hát Tuấn Ngọc kia tự tiện sửa lời làm ôi mặt làng “xướng ca muôn loài”. Trong ca khúc “Tình bơ vơ” nổi tiếng của cố nhạc sĩ Lam Phương hồi giữa tháng 3 năm 2023 này được tổ chức mở show tại Sài Gòn.

Nguyên bản “Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi”, Tuấn Ngọc hát thành “Trời vào thu chiều nay buồn lắm em ơi”. Phần đông khán thính giả, người xem, người đọc, bức xúc, xô vào bình luận chửi bới phê phán Ban Tuyên giáo quá khắt khe, rồi thì Ban Tuyên giáo hay nhăm nhe soi mói, Ban Tuyên giáo dữ dằn hơn con sói đói mồi, nên Tuấn Ngọc phải sửa lời, vân vân và vân vân…

Sai, hoàn toàn sai nếu trút hết nỗi căm giận cùng tội lỗi này lên đầu Tuyên giáo quốc gia. Nhiều người còn suy luận hát về mùa Thu Việt Nam thì phải tươi sáng, hào hùng khí thế như mùa thu Cách mạng tháng Tám 1945, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9. Nếu có đúng chỉ đúng một phần nào đó thôi. Trong khi lỗi đó lại do chính “Ngọc hành” – xử trên sân khấu.

Cứ cho là Ngọc sợ Tuyên giáo cấm chứ bảo Ngọc quên lời nên hát sai càng không đúng vì đời Ngọc hát bài này có dễ đến trăm lần dư. Nếu còn nhân cách không phải hạng người giẻ rách chiếu manh thì ông ta bỏ hát bài đấy, lấy bài hát khác thế thôi có sao đâu, Tuyên giáo chắc bái chào thua. Cũng không phải vậy, đã lâu rồi trước đó “Tình bơ vơ’ được các ca sĩ hát ở Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Các sân khấu diễn tại Sài Gòn, và nhiều nơi khác nữa trên cả nước mà vẫn trung thành với bản gốc, bài hát vẫn thể hiện được đúng lời. Như thế là không có sự cấm đoán ở đây, chí ít đúng bài này.

Tôi ghép thêm môt kẻ nữa cùng dân sàn diễn thời gian chưa xa, đó là Giám đốc nhà hát kịch, thằng hề láo Xuân Bắc. Vẫn biết nó là thằng hề của Tuyên giáo hay Tuyên giáo đẻ ra thằng hề Xuân Bắc xược láo cũng vậy. Thay vì tiếp thu lời phê bình của khán giả trong chương trình Táo quân trên Đài Truyền hình VTV càng ngày càng nhạt nhẽo, Bắc đã bịa bài viết “Cái tát của mẹ” chửi xéo Sử-tô nghĩa là Tổ-sư khán giả. Vậy nếu có vả thì ta vả gẫy răng vỡ mồm thằng hề láo chứ không thể vả mồm Tuyên giáo Trung ương. Ấy vậy mà ối kẻ vẫn ngu ngơ, bao biện cho Bắc, nghiêm khắc với Ban Tuyên giáo mới hay.

Quay lại chuyện ca sĩ Tuấn Ngọc, nay ông ta đã ở tuổi 75, đi mấy mươi năm trên con đường ca hát. Ông ta thừa trình độ để hiểu rõ nghệ thuật bao giờ cũng lưu giữ thông tin, ghi lại lịch sử, dấu tích của thời thế. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khi viết họ đã dồn hết tâm huyết vào tác phẩm của mình, mỗi câu mỗi chữ sáng tác ra đầy ắp nỗi niềm trăn trở, chỉ có họ mới có quyền sửa lời họ viết. Ngay cả Ban Biên tập muốn sửa câu chữ cũng phải hỏi ý kiến nếu tác giả còn sống chứ chưa nói thợ hát Tuấn Ngọc dám tự ý thay chữ khi tác giả đó đã khuất.

Tôi đã từng kể về người hàng xóm nhà tôi, nhạc sĩ Phạm Tuyên, vào dịp kỷ niệm ba mươi năm chiến tranh biên giới phía Bắc, Nhà xuất bản thuộc bên Quân đội yêu cầu ông sửa lại ca từ “quân xâm lược Bành trướng dã man” trong bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” để đỡ bớt sự hung hãn của giặc Trung Quốc, vì Đảng sợ Bắc Kinh nổi giận. Người ta dự định sẽ cho ra mắt một tuyển tập nhạc đồ sộ: “Những khúc quân hành vượt thời gian”. Ca khúc “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên viết trong đêm 17 sang ngày 18-2-1979 không thể bỏ qua. Nó không chỉ đơn giản là bài hát, mà còn là trang sử bi tráng quý giá sống động, chính xác hơn trăm vạn lần những trang sử dối trá khác của cuộc chiến tranh hào hùng đánh giặc bành trướng xâm lăng dân tộc đã bị tẩy xóa, giấu giếm, cắt xén, cấm đoán, thêm tốt bớt xấu cho Trung Quốc. Phạm Tuyên kiên quyết từ chối và người ta cũng từ chối đưa bài hát của ông vào tuyển tập. Nếu lúc đó ông đồng ý sửa thì nhân cách của ông có còn hay không. Bài hát đó có ai thèm ca nữa hay không.

Cũng thời gian cả nước dồn hết tổng lực đánh đuổi giặc cướp Trung Quốc trên biên giới phía Bắc năm 1979 đó, có thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đang ngồi bó gối ba láp ba la tại nước Nga viết: “Uống rượu với người bạn Nga”

Nào nâng cốc! Mừng quê tôi

Quân Tàu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi.

Biên giới mùa này, hoa ban nở

Loài hoa như trái tim người! (1979)

Khi lọt đít vừa chiếc ghế Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Khoa sợ “thế lực thù địch” thân bọn Bành trướng ngầm hãm hại, Khoa hãi vãi vứt không thương tiếc những hạt máu chữ lịch sử trên của mình để thay vào:

Và em gái hái nho ấy

Mắt em như cốc rượu đầy

Chỉ nhìn vào mầu mắt ấy

Là tôi đã ngả nghiêng say.

Hai khổ thơ hoàn toàn trật lất, không ăn nhập gì với nhau. Thần đồng vớ thần đồng vẩn. Liêm sỉ có hạn, khốn nạn dư thừa. Khoa chưa đủ tầm cỡ “Phong trần, mài một lưỡi gươm” nhưng dứt khoát vào hạng “Những loài giá áo túi cơm sá gì” (Nguyễn Du).

Hành động sửa lời đổi chữ tùy tiện dại dột dốt nát của bô lão xướng ca Tuấn Ngọc cũng chỉ xếp vào loài giá áo túi cơm như Trần Đăng Khoa vậy thôi. Việc này giúp tôi nhớ lại chương trình Thúy Nga Paris by Night 1994 với chủ đề “Lam Phương 40 năm âm nhạc” và tìm vào trang Web Bolero (chấm) com, đọc được bài viết của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, người dẫn dắt chương trình lâu năm nhất cho Trung tâm Thúy Nga này. Ông Ngạn thường thắc mắc tại sao trong nhạc của Lam Phương có nhiều câu từ buồn đến thế. Gần 20 năm sau gặp nhau tại Pháp, Lam Phương mới kể lại cho Ngạn nghe câu chuyện tình đơn phương của chàng nhạc sĩ trẻ quê mùa là ông và cô ca sĩ Sài Thành hoa lệ Bạch Yến, quãng thời gian 1970 – 1972 không thành. Để rồi ca khúc “Tình bơ vơ” lãng mạn của ông ra đời mang giai điệu man mác buồn xuyên hai thế kỷ.

Lam Phương viết “Tình bơ vơ” một ngày trời Thu Việt Nam khi người mà mình yêu thầm nhớ trộm là Bạch Yến đã qua nước Pháp. “Em khóc cho đời viễn xứ… rồi anh lặng lẽ ra đi. Gom góp yêu thương quê nhà, dâng hết cho người tình xa”. Nếu không ông đã viết trời vào Đông hay trời vào Xuân… Việt Nam buồn lắm. Ý muốn nhắn gửi cô nhân tình của mình biết về địa điểm, không gian, thời gian, vào mùa Thu nay ở hai đầu nỗi buồn, nỗi nhớ từ hai phương trời cách biệt, hai quốc gia Pháp – Việt cách xa.

Ta e rằng, nếu xướng ca Tuấn Ngọc cứ phát huy “biên tập viên” bừa bãi, ngu xuẩn kiểu này thì có ngày hát về cuộc chiến đánh giặc Trung Quốc bành trướng “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ (Phạm Tuyên), Ngọc ngỏng đầu ngoác mồm: “Quân xâm lược tàn ác dã man” mà vứt mẹ nó đi bốn chữ “bành trướng Bắc Kinh” vì sợ Tuyên giáo khép tội hỗn láo với Thiên triều. Hát “Viếng lăng Bác” của Hoàng Hiệp “Tôi ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Nếu mọi người thắc mắc “Con ở miền Nam” chứ sao lại “Tôi ở miền Nam” thì Ngọc sẽ quắc mắt: Tao là ông hoàng nhạc chữ tình lừng danh Tuấn Ngọc đây, tao đ3o phải “con ở” thuê, đứa ở đợ, ô sin làm mướn coi nhà đuổi gà cho ai cả, hiểu chưa?

Bị “cái đám quần chúng” chửi nhức óc xóc tim quá, Ngọc xin hát lại: “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương thế này để tạ lỗi khán giả cùng tác giả: “Trời vào Thu Đại Ngu buồn lắm em ơi”. Có còn ai dám thắc mắc nữa hay không? Thắc mắc hả, Đại Ngu là tiền thân tên nước Việt Nam xưa. Có thế mà cũng không biết!

ST

No comments:

Post a Comment