Wednesday, July 26, 2023

Câu chuyện luân hồi - Anne Frank

 Anne Frank, tác giả của cuốn “Nhật ký của Anne”(*), là một trong những nạn nhân nổi tiếng nhất của thảm sát Holocaust của phát-xít Đức trong Thế chiến thứ 2. Cô bé qua đời khi chỉ mới 15 tuổi.

Anne là một người Do Thái ở Hà Lan. Vào sinh nhật lần thứ 13 của mình, cô bé đã nhận được một cuốn nhật ký tuyệt đẹp như một món quà sinh nhật. Cô bé Anne, người mơ ước trở thành nhà văn, bắt đầu viết nhật ký. Sau đó, để tránh bị phát-xít Đức truy bắt, gia đình gồm 4 người của Anne cùng 4 người khác đã trốn trong một căn phòng bí mật thuộc văn phòng của cha cô, ông Otto Frank ở Amsterdam.

Với sự hiệp trợ của một nhóm đồng nghiệp được cha cô tin tưởng, họ đã trốn ở đó được hai năm và một tháng cho đến khi bị tố cáo vào tháng 8 năm 1944, và tất cả đều bị tống vào trại tập trung. Anne đã chết trong trại tập trung Bergen-Belsen năm 1945. Cuối cùng, chỉ có cha cô là Otto Frank sống sót.

Cuộc sống trong căn phòng bí mật trong hai năm được ghi chép lại hoàn chỉnh trong Nhật ký của Anne. Cuốn nhật ký sau đó được ông Otto biên soạn thành sách và xuất bản vào năm 1947. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn cầu và trở thành một kiến chứng nổi tiếng cho tội ác tuyệt diệt người Do Thái của Đức quốc xã trong Thế chiến thứ hai.

Tôi chính là Anne
Đó là những năm 1960. Trong một lớp học ở một trường tiểu học tại Thụy Điển, cô giáo đã kể cho bọn trẻ nghe về câu chuyện của Anne. Ngay khi ấy, một cô bé chừng 7, 8 tuổi bối rối ngẩng đầu và nói trong thảng thốt: “Làm sao cô giáo biết về câu chuyện của con?” Cô bé này là Barbro Karlen. 

Barbo Karln alias Anna Frank

Barbro sinh ra trong một gia đình theo đạo Thiên chúa ở Thụy Điển năm 1954. Khi chưa đầy 3 tuổi, cô bé bắt đầu nói với bố mẹ rằng mình là “Anne Frank”. Lúc đó chưa có phiên bản Thụy Điển của cuốn “Nhật ký Anne”, vì vậy cha mẹ của Barbro không biết Anne Frank là ai. Họ nghĩ rằng đây có thể chỉ là một người bạn trong trí tưởng tượng của con gái mình.

Tuy nhiên, kể từ đó, cô bé Barbro thường xuyên gặp ác mộng, mơ thấy những người đàn ông leo lên cầu thang, rồi đá vào cửa phòng nơi ẩn náu trên gác mái của cô. Khi cô bé đi ra ngoài và nhìn thấy một người đàn ông mặc đồng phục, cô bé sợ hãi trốn sau lưng mẹ mình, ánh mắt đầy sợ hãi. Thỉnh thoảng cô bé vừa ăn đậu vừa lẩm bẩm: “Con đã từng ăn cái này cả ngày rồi, con thực sự không muốn ăn nữa”. Những gì đứa trẻ nói là về khoảng thời gian ở trong căn phòng bí mật, nhưng mẹ của Barbro đương nhiên không thể hiểu được điều này.

Cô bé không chịu đi tắm hay cắt tóc. Bởi vì trong các trại tập trung của phát-xít, những người mới đến đều bị lột quần áo, cạo đầu, rồi tắm rửa để khử trùng. Một số người đi tắm rồi không bao giờ trở lại, vì vòi hoa sen không phải là nước, mà là khí độc chết người. Vì những điều này, cha mẹ của Barbro không thể chịu nổi.

Cha mẹ Barbro bắt đầu lo lắng. Liệu đứa trẻ này có vấn đề gì về tâm thần không? Vì vậy, họ đã đưa đứa trẻ đến gặp bác sĩ tâm lý. Lúc này, cô bé Barbro đã ý thức được rằng ‘thế giới của Anne không được người lớn tiếp thu’. Vì vậy, cô bé đã ngậm miệng không nói về Anne trước mặt bác sĩ. Cuối cùng, chẩn đoán của bác sĩ kết luận rằng: tinh thần của đứa trẻ hoàn toàn bình thường.

Về thăm căn phòng bí mật

Khi Barbro 10 tuổi, gia đình cô bé đi du lịch vòng quanh châu Âu, và Amsterdam là một trong những điểm dừng chân. Vào thời điểm đó, với việc phát hành phiên bản Thụy Điển của cuốn “Nhật ký của Anne”, cha mẹ của Barbro đã nhận ra rằng Anne Frank hóa ra là một nhân vật có thực. Văn phòng có căn phòng bí mật vừa rồi đã được chuyển đổi thành một viện bảo tàng có tên là “Nhà của Anne”, nơi đã trở thành một điểm tham quan nổi tiếng ở Amsterdam. Vì vậy, cha mẹ cô bé nghĩ rằng tốt hơn là nên đưa con gái họ đi xem. Điều đó cũng tốt cho việc lý giải những hoài nghi của chính họ.

Chung cư trên đường Merwedeplein, nơi gia đình Frank sinh sống từ năm 1934 đến 1942



Đường phố ở Amsterdam rất phức tạp, ngay cả khi một người nước ngoài cầm bản đồ trong tay, hiếm khi họ không bị lạc. Vì vậy, cha của Barbro đã nhấc điện thoại của khách sạn và định gọi một chiếc taxi để đưa họ đến đó. Tuy nhiên, cô con gái đột ngột nói: “Chúng ta không cần taxi đâu. Ở đây cách đó không xa đâu!” Thấy đứa trẻ đầy tự tin, cha mẹ Barbro đã đi theo cô bé.

Sau khi cùng bố mẹ dạo quanh những con phố quanh co trong gần 10 phút, Barbro nói: “Chúng ta sẽ đến đó ngay thôi, ở góc phố tiếp theo thôi!” Quả nhiên, “Nhà của Anne” nằm ở ngã tư tiếp theo.

Đứng trước cửa, Barbro bắt đầu lẩm bẩm một mình: “Thật kỳ lạ, trước đây trông không giống như thế này!” 

Hóa ra, những bậc thang trước cửa đã được tu sửa sau khi bảo tàng được xây dựng, và chúng không phải như trước đây. 

Họ vào nhà và đi lên những bậc thang hẹp, Barbro đi trước mặt họ lúc nào không hay. Đột nhiên cô bé tái mặt, quay đầu lại nắm lấy tay mẹ, bàn tay bé bỏng lạnh ngắt – hóa ra họ đã vào nơi ẩn náu trước đây của gia đình Anne. Nhưng Barbro nhất quyết đi về phía trước, như thể đang tìm kiếm điều gì đó.

Hình ảnh tái hiện lại chiếc tủ sách che lối vào Secret Annex, ở Amsterdam

annefrankhouse-bookcase.jpg


Khi họ bước vào một căn phòng nhỏ hơn, đôi mắt của Barbro lóe lên sáng rực, và cô bé hét lên: “Nhìn kìa, những bức ảnh của những minh tinh điện ảnh vẫn còn đó!” Việc này như thể cô bé được trở về nhà một lần nữa. Hóa ra đây chính là phòng ngủ trước đây của Anne. Cô bé thích cắt và ghép các bức ảnh của các minh tinh điện ảnh từ các tờ báo và tạp chí, sau đó dán chúng lên tường. Đó là trò giải trí hiếm hoi của cô bé trong cuộc sống ẩn dật trong hai năm đó.

Nhưng những gì cha mẹ cô bé nhìn thấy chỉ là một bức tường trống không có gì cả. Barbro xem xét kỹ hơn, ơ, thực sự là không có gì cả. Trong hoài nghi, bà mẹ chộp lấy người hướng dẫn viên bên cạnh và hỏi. Cô hướng dẫn viên trả lời rằng trên tường đúng là có những bức ảnh, nhưng đã được lấy đi cách đây 2 tuần để có thể cho vào khung kính bảo quản lâu dài.

Sau khi nghe điều này, người mẹ đã rất sốc, và ngay lập tức hiểu tại sao con gái mình lại quen thuộc với đường phố Amsterdam, tại sao cô bé biết rằng cầu thang đã được tu sửa lại, và bức tường được dán ảnh. Người mẹ quay lại ôm con gái và nói: “Mẹ hiểu rồi, con sẽ không còn cô đơn nữa”.

Sau cuộc hành trình này, cha mẹ của Barbro cuối cùng đã chấp nhận sự thật rằng cô bé là hóa thân của Anne, và bắt đầu hiểu và ủng hộ cô bé. Cô gái nhỏ dần trở nên vui vẻ.

Lúc này, tài năng viết lách của cô bé cũng đã được thể hiện hết. Như để thực hiện ước mơ làm nhà văn của Anne ở kiếp trước, Barbro nhanh chóng cho ra đời hàng loạt tác phẩm và trở thành nhà văn thần đồng. Năm 12 tuổi, cô xuất bản cuốn sách đầu tiên “Con người trên Địa cầu”, cuốn sách này đã trở thành tập thơ văn xuôi bán chạy nhất trong lịch sử Thụy Điển. Ở tuổi 16, cô đã xuất bản 11 tập thơ và tiểu luận. Những cuốn sách này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng cũng như cuốn “Nhật ký của Anne” và được lưu hành rộng rãi. Nhưng Barbro không bao giờ đề cập trong cuốn sách rằng mình từng là Anne.

Sách mới: ‘Và những con sói đã tru lên

Điều thú vị là sau 15 tuổi, trí nhớ về tiền kiếp của Barbro bắt đầu mờ dần. Đến năm 16, 17 tuổi, cô bé gần như không còn nhớ gì cả. Cô trở lại với cuộc sống bình thường và trở thành cảnh sát. Cô nghĩ rằng ký ức về Anne từ nay sẽ được phong kín, người ngoài vĩnh viễn không bao giờ biết được.

Tuy nhiên, khi Barbro bước vào độ tuổi 40, hai nhân viên cảnh sát ở cạnh cô đã làm hại cô và suýt giết chết cô. Lúc này, hồi ức về Anne Frank trở lại một lần nữa. Trong một giấc mơ, Barbro cảm nhận rõ ràng những ngày tháng cuối cùng của cô bé Anne, cô chợt nhận ra rằng hai viên cảnh sát kia chính là tái sinh của hai tên Đức quốc xã đã bức hại Anne.

Barbro chợt hiểu ra sứ mệnh của mình. Thượng Đế muốn cô bảo trì ký ức về Anne để cô có thể kể lại câu chuyện của mình, và nói với mọi người rằng trên đời không có việc gì là ngẫu nhiên, những sự tình phát sinh trên thế gian hôm nay rất có khả năng là do ân oán từ tiền thế mà tạo thành, chính là “nghiệp lực” – Karma.

image001.png

Thế là Barbro lại cầm bút lên, dũng cảm đào sâu vào vết thương của mình và viết cuốn tiểu thuyết tự truyện “Và những con sói đã tru lên” (And the Wolves Howled) (**), kể về mối quan hệ giữa mình và cô bé Anne, và ân oán của họ với hai tên Đức quốc xã từ tiền kiếp. Barbro nói rằng mặc dù kiếp trước cô đã bị chúng bức hại đến chết, nhưng kiếp này cô sẽ không để bọn chúng thành công, bởi vì kiếp này cô có một nội tâm mạnh mẽ hơn.

Sau khi xuất bản, cuốn sách đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi, tuy nhiên, sự chế giễu và mỉa mai cũng tràn ngập.

May mắn thay, Barbro cũng có đồng minh. Đầu tiên là nhóm nghiên cứu luân hồi do Tiến sĩ Ian Stevenson tại Đại học Y khoa Virginia đứng đầu. Họ đã cẩn thận nghiên cứu và so sánh những điểm tương đồng về đặc điểm ngoại hình, tính cách và đặc điểm giữa Anne và Barbro, xác nhận tính chân thực của câu chuyện luân hồi này.

Ví dụ, điều cảm động nhất trong cuốn Nhật ký của Anne là trái tim nhân hậu của cô gái nhỏ, người không từ bỏ hy vọng trong nghịch cảnh. Anne tin rằng những người làm điều xấu chỉ bị điều khiển bởi cái ác. Mặc dù thực tế rất tàn khốc, cô bé vẫn “tin rằng dù thế nào đi nữa, bản chất con người là tốt” (Nhật ký, ngày 15 tháng 7 năm 1944).

Và Barbro đã nói: “Những người càng tin vào cái thiện và sức mạnh của cái thiện trong nội tâm họ, thì khả năng khống chế cái ác càng lớn. Chỉ cần họ có thể tin tưởng vào thiện lương, gia tăng lực lượng của nội tâm, rất nhiều những con người bất hạnh sẽ có thể đột phá sự hắc ám”.

Hãy so sánh xem, sự nhận thức đối với tà ác và sự kiên tín đối với thiện lương giữa hai người này chẳng phải phi thường tương hợp sao?

Có một người nữa hết mực đứng về phía Barbro, chính là anh họ của Anne – Buddy Elias, Chủ tịch Quỹ Frank. Khi Barbro chuẩn bị xuất bản cuốn sách “Và những con sói đã tru lên”, Buddy đã thông qua nhà xuất bản, mời cô dùng bữa tại nhà mình, nhưng ông yêu cầu không tiết lộ danh tính, nói rằng ông là một fan hâm mộ nhỏ.

Nhưng ngay khi họ gặp nhau, Barbro đã nhận ra ông và rơi nước mắt trong vòng tay ông. Buddy không kìm được nước mắt khi nhìn thấy một khuôn mặt rất giống với Anne trước mặt mình. Sau đó, họ là những người bạn rất tốt. Tại cuộc họp báo của Đức công bố về cuốn sách mới của Barbro, Buddy đã thực hiện vai trò của mình, đứng ra đại diện cho người em họ – Anne – trong tiền kiếp.

Sau cuốn tự truyện này, có lẽ sứ mệnh của cô đã hoàn thành, Barbro đã chuyển đến Hoa Kỳ và an tâm sống một cuộc sống bình thường.

Chà, đó là tất cả cho câu chuyện hôm nay. Một số người nói rằng mỗi người đều có một sứ mệnh trong thế giới này. Nếu sứ mệnh của Barbro là viết tiếp cuộc đời cho Annie, minh chứng cho thuyết nhân quả là có thật, vậy thì sứ mệnh của bạn sẽ là gì?




No comments:

Post a Comment