Thursday, December 11, 2025

Where is Lao

Lào ở đâu?

Lào là một quốc gia không giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc và Myanmar, phía Đông giáp Việt Nam, phía Nam giáp Campuchia, phía Tây giáp Thái Lan và sông Mê Kông.

Vị trí gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông khiến Lào trở thành yếu tố quan trọng trong “Thuyết Domino” của Tổng thống Dwight D. Eisenhower nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Eisenhower từng nói với Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nếu Lào mất, phần còn lại của Đông Nam Á sẽ theo sau.” Trong ngày đọc diễn văn chia tay năm 1961, Tổng thống Eisenhower đã phê chuẩn việc CIA huấn luyện lực lượng chống cộng sản trên núi rừng Lào. Nhiệm vụ của họ: phá vỡ các tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh sang Việt Nam.

Những người kế nhiệm Eisenhower tại Nhà Trắng – John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và Richard Nixon – đều phê chuẩn việc tăng cường yểm trợ không quân cho lực lượng du kích, nhưng không công khai. Hiệp định quốc tế về trung lập của Lào năm 1962, được ký bởi Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Hoa Kỳ và 10 quốc gia khác, cấm các bên trực tiếp xâm lược Lào hoặc thiết lập căn cứ quân sự tại đây. Cuộc chiến bí mật ở Lào đã bắt đầu.


Lịch sử Lào

Trước Chiến tranh Lạnh, Lào đã nhiều lần bị các nước láng giềng can thiệp. Năm 1353, Fa Ngum thành lập quốc gia Lào đầu tiên có tên “Lan Xang” – Vương quốc Triệu Voi. Từ 1353–1371, ông chinh phục phần lớn lãnh thổ Lào ngày nay và một phần Việt Nam, Đông Bắc Thái Lan, đồng thời mang Phật giáo Theravada và văn hóa Khmer từ vương quốc Angkor (Campuchia ngày nay) vào Lào.

Qua nhiều thế kỷ, các nước láng giềng bị chinh phục đã phản công, và người Thái chiếm phần lớn lãnh thổ Lào từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Lào ngày nay được hình thành từ nhiều nhóm sắc tộc khác nhau với ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt.

Năm 1893, Pháp tuyên bố Lào là một phần của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Với Pháp, việc có Lào làm xứ bảo hộ là cách để kiểm soát sông Mê Kông – tuyến thương mại quan trọng của Đông Nam Á.

Ảnh hưởng của Pháp tại Lào suy yếu lần đầu năm 1945, khi Nhật chiếm đóng Lào trong những ngày cuối của Thế chiến II. Khi bom nguyên tử rơi xuống Nhật, Lào tuyên bố độc lập dưới chính phủ Lào Issara (“Lào Tự Do”) của Hoàng thân Phetsarath. Nhưng Pháp đã quay lại giành quyền kiểm soát năm sau đó.

Lào giành độc lập hoàn toàn năm 1954 sau chiến thắng của Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo trước Pháp tại trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Geneva sau đó chia Việt Nam thành hai miền và buộc Pháp từ bỏ quyền lợi ở Đông Nam Á. Hoa Kỳ không ký hiệp định này vì lo ngại rằng khi Pháp rút đi, Đông Nam Á sẽ rơi vào tay cộng sản.

Nội chiến Lào và Pathet Lào

Hoa Kỳ theo dõi sát sao khi Pathet Lào ngày càng được ủng hộ tại Lào mới độc lập. Pathet Lào là một nhóm cộng sản thành lập tại căn cứ Việt Minh năm 1950 trong thời Pháp. Họ phụ thuộc nhiều vào viện trợ của Việt Nam, lãnh đạo là Hoàng thân Souphanouvong – “Hoàng tử Đỏ”. Ông là con của một hoàng tử Luang Prabang và một thường dân, được giáo dục tại Việt Nam, trở thành môn đồ của Hồ Chí Minh và sau này lãnh đạo phe đối lập chống lại người anh cùng cha khác mẹ – Souvanna Phouma, Thủ tướng Lào nhiều nhiệm kỳ (1951–1954, 1957–1958, 1960 và 1962–1972). Phouma chủ trương chính phủ liên hiệp cân bằng giữa Pathet Lào và các lực lượng bảo thủ.

Quyền lực của Phouma rất mong manh. Dưới thời ông, quân chính phủ và Pathet Lào bắt đầu đụng độ ở vùng Đông Bắc giáp Việt Nam. Công khai, Tổng thống Kennedy tuyên bố ủng hộ việc “trung lập hóa” Lào – nhưng trên thực tế lại khác xa so với lý thuyết.


Đội quân bí mật của CIA

Năm 1960, CIA tiếp cận Vang Pao – thiếu tướng Quân đội Hoàng gia Lào, người dân tộc H’Mông – để làm chỉ huy đội quân bí mật chống Pathet Lào. Người H’Mông vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, sống ở vùng núi hẻo lánh Lào trong cảnh nghèo khó, và có truyền thống chống lại chính quyền. CIA đã khai thác lịch sử xung đột này để phục vụ mục tiêu của mình.

Vang Pao có kinh nghiệm chiến đấu chống Pháp và Nhật, được thuộc hạ ca ngợi vì dũng cảm. CIA khởi động Chiến dịch Momentum, trang bị và huấn luyện người H’Mông để đối đầu Pathet Lào trong cuộc chiến ủy nhiệm ngày càng mở rộng.


Chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ tại Lào

Chiến tranh trên bộ với quân Mỹ tại Lào không được tính đến. Tổng thống Kennedy viết từ năm 1961 rằng: “Lào… là một nơi cực kỳ bất lợi để tiến hành chiến dịch. Địa lý, địa hình và khí hậu đều là những trở ngại sẵn có.” Ném bom Lào được xem là cách an toàn hơn để cắt đứt tuyến tiếp tế cộng sản sang Việt Nam trước khi chúng được dùng chống lại quân Mỹ.

Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom Lào năm 1964, sử dụng máy bay AC-130 và B-52 mang bom chùm trong các phi vụ bí mật xuất phát từ Thái Lan. Theo Al Jazeera, Mỹ đã thả lượng bom tương đương một máy bay đầy bom mỗi 8 phút, 24 giờ mỗi ngày, suốt 9 năm.

Mục tiêu chính là phá vỡ tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh và tại Xépôn – ngôi làng gần căn cứ không quân Pháp cũ, nay do Bắc Việt kiểm soát. Năm 1971, Xépôn là mục tiêu của Chiến dịch Lam Sơn thất bại, khi Mỹ và Nam Việt Nam tìm cách chặn đường mòn Hồ Chí Minh.

Hậu quả và di sản

Đến năm 1975, một phần mười dân số Lào – khoảng 200.000 dân thường và quân nhân – đã chết. Gấp đôi số đó bị thương. 750.000 người, tức một phần tư dân số, trở thành người tị nạn – bao gồm cả tướng Vang Pao. Tài liệu giải mật cho thấy 728 người Mỹ chết tại Lào, phần lớn là nhân viên CIA. Cuộc chiến bí mật ở Lào, hay Nội chiến Lào, đã tạo tiền lệ cho một CIA ngày càng quân sự hóa, có quyền tham gia các cuộc xung đột bí mật trên toàn cầu.

Tại Lào, di sản bom Mỹ vẫn tiếp tục gây thảm họa. Từ 1964 đến nay, hơn 50.000 người Lào đã chết hoặc bị thương vì bom Mỹ, 98% là dân thường. Ước tính 30% số bom thả xuống Lào không nổ khi va chạm, và trong những năm sau khi chiến dịch ném bom kết thúc, 20.000 người đã chết hoặc bị thương bởi khoảng 80 triệu quả bom còn sót lại.

Năm 2016, Tổng thống Barack Obama trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên thăm Lào. Ông cam kết thêm 90 triệu USD viện trợ để loại bỏ bom chưa nổ, ngoài 100 triệu USD đã chi trước đó. Công việc rà phá bom vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Wednesday, December 10, 2025

Nhớ nước non xứ Lào .

Trên chiếc phi cơ loại L 20, do phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu và một Ðại tá Mỹ ngồi băng giửa. băng sau tôi và Nguyễn thái Kiên; khoan sau là 2 túi dù, đựng  hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc có lẻ sau hơn 1 năm, từ Tiểu đoàn 5 ND đổi về SLL, sống gần gia đình. Nên bửa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng.?

Sau khi học xong khóa 58 B nhảy dù (chỉ có tôi từ BÐQ về, chưa có bằng dù phải đi học thôi) Chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Nguyễn văn Hy và tôi, lên Trung tâm huấn luyện Long-Thành để nắm toán trưởng. Cũng nên nói rỏ là: các toán viên đã được huấn luyện thuần thuật rồi. Mổi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9 Việt nam (hoặc Nùng) Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ để đặt. Nhưng chúng tôi dùng tên toán 1 toán 23, 45 vân vân. Mấy tuần sau Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5. Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ thêm về các loại mìn bẩy, và phá hoại; cùng xữ dụng các loại vũ khí của nước khối cộng-sản Học, điều không tiền tuyến, hướng dẩn phi cơ, chỉ điểm oanh kích. Câu dây trực thăng. Riêng về các bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt, như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như các bài học chiến thuật, dạy trong các quân trường. Riêng phần tôi đã qua 2 khóa: Căn-bản Biệt động quân và Hành-quân Biệt-động-Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi.

Chúng tôi cũng được thực tập hành quân vùng sông Lá buông, mổi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong toán ăn khớp với nhau. Về đội hình di chuyển hay vị trí và xữ dụng vũ khí của mỗi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý, không có ý kiến gì dị biệt giữa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one-zero (Team-Leader) one-one; one-two; Ðội hình nếu hành quân 6 người thì toán trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì mấy chuyến thực tập, tôi vẩn ở vị trí như vừa nêu, các toán trưởng khác cũng làm như thế Nhưng có điều khi liên lạc với phi cơ, thì one-zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dể hiểu thôi, vì không có người VN ngồi tiền-không-sát. Nghiểm nhiên người cầm ống liên hợp, điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây Phe ta muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.

Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long thành, từ chổ ăn, chổ ngũ, cũng có người lo, quân trang quân dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy, thì họ đâu có chiụ Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt, nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ lại lúc ở Biệt-động-quân, mấy tên cố vấn dể thương kể gì. Sợ Sĩ quan chúng tôi ra phết .Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung-úy Trần-thụy-Ly, sĩ quan lien lạc, hướng dẩn, để trình bày lên thượng cấp Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ, tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngôi trên phi cơ tháp tùng với Ðai-tá Hồ-Tiêu để đi qua Lào.

Ðược biết Sở-liên-lạc có nhận yểm trợ cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu-đoàn của Hoàng-gia Lào. Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây ? Lúc ở phi trường Tân sơn nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với phi hành đoàn, là phi cơ sẽ ghé Ðà nẵng, để cho vị Ðại tá Mỹ xuống, và  đổ xăng luôn, Xong ra Ðông Hà đón 1 sĩ quan Lào, sau đó phi cơ sẽ đáp ở Khe-sanh, và vị sĩ quan Lào này sẽ hướng dẩn phái đoàn qua Tchépone.

Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc, vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu thuyền qua lại rất rỏ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho, Hai ông Ðai-tá vẩn rì rầm nói chuyện. Lúc này tôi bổng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị cũ một chút nhé .!

Lúc tôi nhận được công điện của Bộ TTM về SLL. Tôi nghỉ chắc có lẽ do ông NQT, tham mưu trưởng SÐ dù xin đây. Thôi thì phen này, sẽ giã từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964 các đại đôi biệt lập BÐQ tuy  là đã sáp nhập lại thành Tiểu đoàn rồi. Nhưng các đại đôi vẩn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu, ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa đưa sĩ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẫn phải chờ, Khoảng gần tháng, sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị một trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình long xuống Lai-khê. Ðại đôi tôi vừa ra khỏi quận Chơn thành hơn 1 cây số thì bị phục kích .Các đại đội đang đóng ở Tân Khai,Tàu ô, vội đi tiếp viện, liền bị chiến thuật:’công đồn đã viện’ của địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu đoàn chết mất 5 sĩ quan, đại đôi tôi SQ,1 chết 1 bị thương; phần binh sĩ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đội tôi sau trận này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sĩ quan xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sĩ khóc than, chồng vừa chết, đại đội như còn chưa ổn định tinh thần, Ở hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đội trưởng bị thương, Thiếu úy Tùng trung đội trưởng, trung đội 1 chết. Ðại đội chỉ còn tôi là sỉ quan; nên kiêm luôn Ðại đội trưởng. Do đó tôi về trình diện SLL trể hơn 3 tháng. Một phần tôi dùng dằn không muốn rời đại đội, vì đại đội này, là đơn vị đầu tiên, tôi phục vụ khi mới ra trường sĩ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt .Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu cứ đại đội, vì lạ chổ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngũ được. Bổng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy trong quả tim này .. .. ..sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm hể lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuộc có bấy nhiêu câu hát đó Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sỉ Khiêm, thường vụ, xem ai hát, mà sau hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi .Ðược biết đó là binh I Chắc ,sở dỉ hát suốt đêm, là vì các binh sỉ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ sỉ Chắt gác thế. Nó người Sông-ông-Ðốc, (Cà mau), tướng tá dạm vỡ; nhưng hiền lành chẩt phác. Trong đại đội nó tải đạn, cho súng trung liên. Tôi để ý, đạn nó giử luôn sạch sẻ, balô ngoài đạn trung liên ra, chỉ có võng; một cái khăn rằng lớn, vừa dùng để làm mền, vừa dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo xấy. Tuy nó không phải ‘tà lọt’, nhưng mỗi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia sớt đồ ăn cho nó. Một kỹ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại, nhiều lần như muốn hỏi điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chù chừ mãi một hồi lâu nó mới mở miệng: Thiếu-úy: Phải con gái tụi nó có 2 lổ, 1 lổ tiểu và một lổ lửa, Nếu không biết  .. ..nhằm vào lỗ lửa thì phỏng cu phải không ? Tôi định cười thật to,vì sự khù khờ của nó, vội kềm lại được, bèn hỏi: Ai nói với Anh như thế. Nó đáp Thượng sỉ Khiêm. Tôi bảo Thượng sỉ Khiêm gạt anh đó. Mà mỗi lần đại đội về Bình-long, sao anh không đến Hàng-keo, đi chơi cho biết. Tôi nghỉ hôm nào đai-đội về Bình-long chắc tôi phải dẫn nó đi một chuyến quá. Tôi bèn giải thích thật cặn kẻ cho nó biết.

Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước một tiệm hũ tiếu duy nhứt ở quận Chơn thành. Con Lài con nhà lao động, mà nước da trắng bóc, thân hình nẩy nở, thật cân đối. Tôi thấy các HSQ Biệt-động-quân, HSQ Chi khu, có cả một vài SQ chi khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù-khù có ông Cù độ mạng. Nó lại thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mổi chiều, nếu đại đội không hành quân xa thì nó ra nhà con Lài giúp đở, những gì nó làm được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy chớ không phải đi, thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới Ông gìa nó từ Cà mau lên xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ có Ba nó và đại đội 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ mặc vừa được cái áo mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải quần ‘trây-di, giày bốt-đờ-sô’. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10 lít rượu đế. Tôi thắy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui, mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt.

Thế mà, 2 tuần sau, thắng Chắt bị tử trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn-thành, không đưa về Càmau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ tử sỉ khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghỉ, cử chỉ này, chứng tỏ một niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó. Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ. Chưa từng có người yêu, dẩn đi dạo phố. Chưa từng có một thời làm học trò, biết ghi lưu bút ngày xanh ... ..Còn, còn rất nhiều mất mát thiệt thòi khác nửa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên, của chị Dậu, chị Tình, ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.

Xin lổi, đã làm quý vị vài giây dao động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.

Phi cơ đáp phi trường Khe-sanh, sau khi đón vị sĩ quan Lào tại Ðông hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly, qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẳn rồi. Khe sanh cách Ðông hà không xa, mà thời tiết và cảnh vật thật là cách biệt, Cây cối xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa, mà không gian bao trùm một màn sương mỏng . Không khí thật dể chịu .Phi trường Khe sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB. Khe sanh nằm trong quận Hương hoá, nơi đây trồng rất nhiều cà phê.Từ trại theo quốc lộ 9, qua quận Hương hoá, qua Lao bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp thuộc) qua Làng vây; rồi mới đến biên giới 2 nước.

Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân khu Tchépone niềm nở đón tiếp và đưa vào phòng thuyết trình. Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài Vị sỉ quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp.Tôi phải lôi vốn liếng Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco-Chinoise ra để theo dõi buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn-vị địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất Tiểu đoàn 33 này mà thôi.

Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ tiêu quay về Khe sanh và trở về Sàigòn cùng buổi chiều hôm đó. Buổi tối, không biết là có dịp lễ nào cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái đoàn. Máy phát điện được chạy lên sáng khắp doanh trại. Tôi thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng  tập trung về tham dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự. Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất loại áo quần bó sát, mà ta thường trộng thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25 là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các sĩ quan, và binh sĩ, thì da dẻ trông trắng trẻo, có lẽ họ là người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có một món như là bê thui. Chắm một thứ nước gì sền sệt bỏ vào muổng, rồi khum người lại mời chúng tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ. Món nước chấm này là phần bên trong ruột non cuả bò, pha với một loại nước mắm của Lào, Do đó để không bị các cô mời tôi phải có một món khác ngậm trong miệng để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái-lan và Cao-miên. Các cô cũng lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang 2 tay cứ xoay xoay, cũng dể. Không biết có phải phong tục Lào theo mẩu hệ hay không mà các cô tự do vui chơi đến sáng.

Thời tiết lạnh lạnh, không khí thật dể chịu, Mặc dù hôm qua trải qua một chặng đường xa, sáng nay dậy chúng tôi thấy thật khỏe , không thấy mệt .Trung-úy Ly cho biết ,nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở một tiền đồn ,với binh sỉ hoàng gia Lào ,để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng quân xa mổi đêm ( Thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban ngày )Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch mổi đêm .Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ Mỹ oanh-kích dử dội .Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm nửa .Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại ,thì chúng tôi thi hành công tác .Toán chúng tôi gồm Trung-úy Ly ,Kiên ,tôi và 2 HSQ truyền tin .Nhưng mổi lần gửi công điện cần quay đầu bò ( Bộ phận phát điện ) bên phía Lào, đều tăng phái 2 binh sỉ qua làm công tác này .Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi chơi khoẻ ru .Mổi buổi sáng,bên Bộ-chỉ-huy Tiểu-đoàn Lào đều mang qua cho bên Việt-nam, một rổ xôi .Xôi họ thổi khô , nhưng rất mềm, và dẻo .Nơi đây không có chợ búa gì cả .Ngày nào ngán xôi ,thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội ,ăn với cá mòi Sumaco .Buồn qúa ,tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi .Nó không chiụ đi ,cứ ngồi chửi :là nó bị ‘Ðì’,nên đày nó qua đây.Vì lúc cả nhóm đòi phải được quyền chỉ huy ,nếu không được; tôi và nó ,xin được trở về đơn vị cũ .Tôi không cho là điều nó nghỉ là đúng .Tánh thằng Kiên là vậy ;nó nóng nảy nhưng trực tính ,việc gì nó cho là không đúng ,là nó chưởi toáng cả lên .Bất kể là quan lớn, hay bé .Phần tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chưởi ‘’.Số ngày mày đi lính, không bằng ngày tao bị lậu ‘’.Mà sự thật : Năm 1954 nó có tham dự trận Ðiện biên phủ .Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon ‘quan ba ‘ ‘quan bốn ‘,còn nó vẫn làm ‘ quan một ‘dài dài Với nó, mà đem chuyện ‘’thi hành trước,khiếu nại sau ‘’thì còn khuya, nó mới làm .Vì tính khí nó như thế , nên sau này nó bị đổi ra bộ binh .;làm việc ở Phòng 2 , Quân đoàn I .Thỉnh thoảng có đi công tác về Ðànẳng, tôi có ghé khu phòng vãng lai SQ độc thân thăm nó .Bây giờ nó bất mản còn dữ nữa .Cho là đuổi nó ra khỏi ‘nhảy dù’ là làm nhục nó .Thời gian sau ,nghe nói nó tình nguyện vào Sở Bắc. Kinh-Kha lúc sang Tằn, là thanh niên trai tráng .Còn thằng Kiên thì một vợ 4 , 5 con rồi .Mà nghỉ cũng lạ ,thanh niên trai trẻ tình nguyện thiếu gì .Sau lại chọn nó làm chiến sỉ vô danh .Biết rằng, ra đi sẻ không có ngày trở lại .Bị tù  gần 20 năm  .Vượt biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bão lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt-nam .Các bạn nào chưa quen biết nó ,mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hảy thông cảm .Chúng ta mà va vào trường hợp như nó, sợ bây giờ chắc đã theo ông bà, ông vải từ lâu.Rồi thì Ông Trời cũng có mắt .Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chìu chuộng, và lo cho nó hết mình  Ðền bù lại những ngày tù đày của nó..Con gái riêng của bà ,cũng kính trọng thằng Kiên như cha ruột .Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả đây Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5 , 7 phần rồi .

Kiên ơi ! Nếu mày có đọc tới đây, thì tụi mình bây giờ ,  còn gì nữa đâu :‘’.Chiều xuống êm đềm’’nghe Kiên .

Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt mình .Làng Husane  chỉ cách trại khoảng 1 cây số ,,nằm cạnh sông TChépone, dưới bóng rợp mát của của những tàng dừa .Ðường làng thật sạch sẻ ,phần nhiều là nhà sàn ,khác với người Miên và người Thượng, họ không nuôi trâu bò, và gia súc dưới sàn .Dân làng thật cởi mở, hiếu khách , vui vẽ, mời tôi leo thang, lên nhà uống nước .Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà ;làm việc nhà ,hay dệt vải .Khung dệt được đặt dưới sàn nhà .Các cô quỳ, và dùng tay để phóng con thoi qua lại .Phần nhiều mọi nhà đều tự dệt vải để dùng .Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi nhìn các cô dệt suốt buổi ,chỉ biết cười ,và làm điệu bộ ra dấu thôi ,có biết tiếng Lào đâu mà nói .Buổi chiều tôi theo mấy HSQ truyền tin đi tắm sông .Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng không sâu ,và bờ sông lài lài ,nên rất dể dàng lên xuống .Các cô cũng không e then, khi tắm chung với người khác phái .Có điều theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy .Khi các cô muốn xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu ,rồi ngồi hụp xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào bờ. Có nhanh mấy đi nửa ,thì tụi tôi cũng nhìn thấy đũ hết rồi .Có thể đến gần , miển là vẩn ở dưới dòng ,nước sông không trong lắm ,nhưng những gì mình muốn thấy, thì vẫn thấy rỏ ràng Họ đùa giởn thật vô tư .Khi muốn lên bờ ,thì một cô quay người ngược về chúng tôi,chạy nhanh lên bờ ,choàng khăn xong ,từ đó ném khăn xuống cho các bạn .Mấy thuở mà nhìn được một lần 5 , 7 , sơn nữ Phà-ca cùng tắm sông một lúc ,phải không các bạn .

Chưa có công tác , vẩn ngồi chờ .Tôi và thằng Kiên qua Khe-sanh chơi . Quốc lộ 9 đoạn này còn rất tốt, chưa bị chiến tranh tàn phá .Rừng cây cổ thụ cao ,to,  2 bên đường, khiến con đường mát lạnh .Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ thụ 2,3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì .Nếu đường sá thông thương, thì giờ này làm gì còn .Cũng trên đoạn đường này lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trỉ .Lúc nhỏ xem hát bội ,thấy đào kép có vắt lông trỉ trên mảo ,giờ đây mới thấy tận mắt .Nó thường đi từng cặp .Thấy xe đến gần ,nó chỉ bay tới một đoạn ngắn, rời đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới bay, suốt một đoạn đường dài như vậy .Nếu chúng tôi dừng xe ,đứng nhìn ,thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp .Thỉnh thoảng cũng thấy một loại chim như con công ,nhưng không to và đẹp bằng .

Quận Hương-hóa chỉ có 1 con đường độc đạo .Cũng có một vài tiệm tạp hóa ,kiêm luôn bán càphê .Hàng hóa khá đắt ,vì phải thồ từ Ðông hà lên .Vì là nơi sản xuất nhiều càphê ,nên tôi có hỏi về càphê cứt chồn .Ông chủ quán cho biết là :để đi nhặt những hạt càphê do chồn ăn rồi bài tiếc ra ,thì biết bao lâu mới được 1 ký .Riêng ông thì ,vì có trồng càphê ,những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín ,rụng xuống đất .Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt càphê vữa đi , nhặt những hạt này về rửa sạch phơi khô .Vì có cùng một độ già ,độ chín, giống nhau ,nên hương vị khác hơn những loại khác .Thỉnh thoảng qua Khe-sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng.Buổi cơm chiều đó chúng tôi được bồi dưởng thịt tươi .

Hơn 2 tuần không có việc gì làm ,bắt đầu thấy buồn ;thì có công điện , 2 đứa chúng tôi phải về trình diện SLL ngay .Thằng Kiên nó mừng kể gì .Chiều ngày hôm sau, là chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi .Ðược biết là chúng tôi trở lên lại Long-thành ,các anh Bích , Thụ và Hy đã lên trước rồi .

Hai tuần vừa qua ,xem như vừa được đi du lịch .Cám ơn dân làng Husane ,cám ơn Tchépone ,cám ơn những sơn nữ Phà-ca, đã cho tôi 2 tuần lể khó quên .

Chúng tôi lại trở về toán củ .Bây giờ, sau khi đã được bàn cải ở cấp cao, giửa 2 bên Mỹ-Việt .Tiếng Counterpart được thay thế tiếng Advisor .Nghiã là không có ai chỉ huy ai .Hai bên quyền hạng như nhau .Chúng tôi bắt đầu nhận công tác hành quân .Bắt đầu những chuyến đi ,mà ‘ mười lần đi ,có đôi ba lần không trở lại ‘.

Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại vùng này .Những hố bom B 52 chi chít .Ðường quốc lộ 9 đã bị cày nát nhiều đọan .Làng mạc tiêu điều .Thật kinh khủng .Không biết những Sơn nữ Phà Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời nào.

                                                                                             Lê Minh .

Đại Úy Lôi Hổ Trần Đức Huynh - Chiến Đoàn 1 & 2 Sở Liên Lạc NKT, CCN & CCC, Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế Long Thành

  

Số người vào xem trong 24 giờ: 165,814 

Thursday, December 4, 2025

Tang Lễ Cố Th/Tá Mai Bá Trác Nha Kỹ Thuật / Lực Lượng Đặc Biệt ,hình ảnh và video.

Nguyễn Thiện Tòng 11, Lưu Văn Thuần CD1XK, Đào Mạnh Dũng 11, Vũ Thảo NKT, Đặng Phước Nguyên 11, Phong 81BCD, Nguyễn Đức Tiến HT/LLDB, Hùng BCD.

Ông Bà Tr/Tá Nhan Hữu Hậu LLDB, Bà Thanh Thủy Hội H.O. và C/H Biệt Động Quân


Đến tiễn đưa anh Mai Bá Trác. Người anh hiền hòa, dễ thương ai ai cũng yêu quí. Là Chiến sĩ V.N.C.H Nha Kỹ Thuật, Lực Lượng Đặc Biệt.
Từng chiến đấu bao phen vào sinh ra tử, rồi hôm nay anh cũng giã từ bạn bè thân hữu trở về lòng đất Mẹ.
Thành kính phân ưu cùng gia quyến.
Nguyện xin Thiên Chúa đón rước linh hồn ông Phêro Mai Bá Trác .
🙏🙏🙏





Đào Mạnh Dũng 11 Chicago, Vũ Thảo NKT, Đặng Phước Nguyên 11. Ngyễn Thiện Tòng 11, Lưu Văn Thuần CD1XK







Phạm Hòa NKT




Chị Như Hảo đài Mẹ Việt Nam và anh Phan Nhật Nam 




Chị Thế Thủy 


VIDEOS VIDEO2 VIDEO3 VIDEO4 VIDEO5 VIDEO6 VIDEO7 VIDEO8 VIDEO9 VIDEO10

Wednesday, December 3, 2025

Tiếng Hát Hậu Phương - Ngô Văn Quy

  @Hoi-r9o

Nhớ ngày xưa mà ĐẮNG LÒNG.. CÒN GÌ ĐỂ ""NHẮC NHỚ NHAU CHĂNG"".. Chỉ biết "nhìn người và người nhìn lại mình".. Thấy gì ở Hiện tại và TƯỞNG TƯỢNG ở TƯƠNG LAI.. TUỔI TRẺ bây giờ ra sao ???? Trăn trở mà tan nát LÒNG..
1
Hay quá, anh trình bày rất sinh động. Người trẻ sau này có thể hiểu được sự tinh nhuệ, hào hùng của sắc lính LLĐB.
1
CO THAT NHIEU ; BIET BAO LA CANH DAU THUONG CUA SAU NGAY 30.04.1975 😭😭😭😭. TRONG DOI NGUOI , LAM SAO CO THE QUEN DUOC CHU ! THUA ANH NGO VAN QUY VA THUA HAI CHI : CHI PHUONG HONG QUE VA CHI TRANG THANH LAN ??
1
👍👍💖💖💖💖💖💖🌹🍀🌹🍀🌹
Xin chào ❤❤❤❤❤
Chiếc huy hiệu trên mũ xanh của anh Quy khác chiếc huy hiệu trên mũ xanh của tôi xưa đó. Tôi cũng ở binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt VNCH. Huy hiệu trên mũ xanh của tôi là một cánh dù trắng trên nền tròn màu đỏ. Tôi cũng chẳng được hân hạnh có được chiếc huy hiệu trên cánh tay phải giống áo anh. Áo tôi chỉ giống được áo anh ở cánh tay trái, có Huy hiệu Con Cọp phóng mình với ba làn sấm sét trên nền một hoa dù trắng. Lạ thiệt.CIDG -Biệt kích quân(trong đó có thông dịch viên), nhất là ở các trại LLĐB thì không đội mũ beret. Lạ thiệt!
CHUNG EM XIN GUI LOI CHAO DEN HAI CHI : CHI PHUONG HONG QUE CUNG CHI TRANG THANH LAN VA NGUOI ANH LINH CHIEN NGO VAN QUY CUA LUC LUONG DAC BIET BINH LONG CUA QLVNCH . NHUNG QUI ANH LINH CHIEN RAT NHAN BAN VA NHAN VAN CUA QLVNCH . THAT SU RAT LA TRONG SANG DUNG CAM HIEN NGANG VA THAT LA OAI HUNG LAM . CHUNG EM VAN LUON LUON KHAC GHI SAU MAI . NHUNG TAM LONG THAT LA QUA CAM VE SU CAO CA CUA NHUNG QUI ANH LINH CHIEN VNCH ; DA HY SINH BIET BAO LA GIAN NGUY VE GIAN KHO . VI CHINH NGHIA CUA CAC QUI ANH . DA DANH HET CHO TO QUOC DAN TOC VN VA CHO DONG BAO SAI GON CUA MOT MIEN NAM VN THAN YEU . TRONG SUOT THOI GIAN DAI 20 NAM CUA MOT MIEN NAM VN THANH BINH AM NO TU DO VA HANH PHUC . SAU CUNG CHUNG EM XIN KINH GUI LOI CHUC THAT NHIEU SUC KHOE AN LANH HANH PHUC AN VUI . DEN ANH NGO VAN QUY CUA LUC LUONG DAC BIET BINH LONG CUNG HAI CHI : PHUONG HONG QUE VA CHI TRANG THANH LAN 💖💖💖💖💖💖💖💖💖💖......
2
What year did you joint US Army 5th Special Forces Group?
1
Xin hỏi anh Qui cho biết, vào năm 70 anh có về C3 biên hòa không, nằm sau Quân đoàn 3 với sự chỉ huy của Đại tá Nguyễn thành chuẩn, tôi cũng ở bên biệt kích Mỹ lúc giãi thể, anh có thể cho biết năm được không, tôi vào biệt kích tại trại Hồ ngọc Tảo ( Thủ đức ) vào năm 69 chuyển trại tới Long Hải học thêm một khóa rồi thuyên chuyển về B.16 trại Bí,Trảng sập, anh nói chuyện với phương hồng Quế với Trang thanh Lan tôi không hiểu chút nào, vì tôi cũng ở bên Biệt kích.





Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ, còn gọi là "The Big Red One", đã đến Việt Nam vào
năm 1965. Đơn vị này là sư đoàn bộ binh chính quy thứ hai của Lục quân Hoa Kỳ được triển khai đến chiến trường này. 
Những nơi sư đoàn này đóng quân và hoạt động chủ yếu nằm ở Vùng chiến thuật Quân đoàn III (khu vực quanh Sài Gòn và các tỉnh phía Bắc). Các căn cứ chính bao gồm: 
  • : Trụ sở chính của sư đoàn được đặt tại đây trong một số giai đoạn, từ tháng 2 năm 1966 đến tháng 9 năm 1967 và từ tháng 11 năm 1969 đến tháng 4 năm 1970.
  • Lai Khê
    :
    Đây là căn cứ chính và là nơi đặt sở chỉ huy Lữ đoàn 3 của sư đoàn. Căn cứ này nằm dọc theo Quốc lộ 13 (Thunder Road).
  • : Một trong các căn cứ khác của các lữ đoàn thuộc sư đoàn.
  • Quản Lợi
    :
    Các lữ đoàn khác cũng đóng quân tại những địa điểm này.
     
Khu vực hoạt động của sư đoàn tập trung vào các chiến dịch dọc theo hành lang Quốc lộ 13 dẫn đến Campuchia, khu vực Tam giác Sắt (Iron Triangle) và gần Đồn điền cao su Michelin, nhằm chống lại các lực lượng chính quy của Việt Cộng và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sư đoàn đã tham gia vào nhiều trận đánh lớn, bao gồm Chiến dịch Attleboro, Chiến dịch Junction City và Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
 
Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ ("The Big Red One") đã tham gia vào nhiều chiến dịch và trận đánh lớn trong Chiến tranh Việt Nam, chủ yếu tại Vùng chiến thuật Quân đoàn III (khu vực phía bắc Sài Gòn, các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước).
 
Các trận đánh và chiến dịch nổi bật bao gồm:
  • Chiến dịch Attleboro (tháng 9 - tháng 11/1966): Đây là một trong những chiến dịch tìm và diệt lớn nhất của Mỹ ở Tây Ninh vào thời điểm đó, nhằm vào các lực lượng chính quy của Quân Giải phóng miền Nam (Việt Cộng - VC).
  • Chiến dịch Cedar Falls (tháng 1/1967): Một chiến dịch quy mô lớn với sự tham gia của 30.000 lính Mỹ và VNCH nhằm xóa sổ hoàn toàn "Tam giác Sắt" (Iron Triangle), một căn cứ địa kiên cố của VC ở phía bắc Sài Gòn.
  • Chiến dịch Junction City (tháng 2 - tháng 5/1967): Chiến dịch lớn nhất của Mỹ trong cuộc chiến, với mục tiêu truy tìm Sở chỉ huy Trung ương Cục miền Nam (COSVN) tại tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 1 Bộ binh đã đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch này.
  • Trận Xã Cẩm Mỹ (tháng 4/1966): Một trận chiến đấu ác liệt kéo dài 14 giờ, trong đó Đại đội C thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 16 Bộ binh, Sư đoàn 1 đã bị lực lượng VC bao vây và tấn công dữ dội.
  • Trận Ong Thanh (tháng 10/1967): Một trận đánh đẫm máu gần suối Ong Thanh, tỉnh Bình Dương, nơi Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28 Bộ binh giao chiến dữ dội với lực lượng lớn VC, gây thương vong nặng nề cho cả hai bên.
  • Chiến dịch Toàn Thắng (bắt đầu từ tháng 5/1968): Một loạt các chiến dịch phản công và truy quét quy mô lớn sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, nhằm đẩy lùi và tiêu diệt các đơn vị VC/Quân đội Nhân dân Việt Nam (NVA) ra khỏi khu vực Sài Gòn và các tỉnh lân cận.
  • Các trận đánh dọc Quốc lộ 13: Sư đoàn thường xuyên hoạt động và tham gia nhiều trận đánh nhằm bảo vệ tuyến đường huyết mạch này, còn gọi là "Thunder Road", dẫn lên biên giới Campuchia, bao gồm các trận đánh tại Lộc Ninh và Dầu Tiếng. 
  • Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ,
    giống như hầu hết các đơn vị quân sự Mỹ khác ở Việt Nam, có sử dụng thông dịch viên người Việt Nam. 
    Việc sử dụng thông dịch viên là rất cần thiết cho các hoạt động của quân đội Hoa Kỳ vì rào cản ngôn ngữ và sự khác biệt về văn hóa. Những thông dịch viên này đóng vai trò cầu nối quan trọng trong nhiều nhiệm vụ:
  • Liên lạc với Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH): Điều phối các hoạt động chung, huấn luyện và hỗ trợ các đơn vị QLVNCH.
  • Thẩm vấn tù binh: Thông dịch viên đóng vai trò thiết yếu trong việc khai thác thông tin tình báo từ tù binh Việt Cộng (VC) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (NVA).
  • Hoạt động dân sự và tâm lý chiến: Giúp binh lính Mỹ giao tiếp với người dân địa phương trong các chương trình bình định, hoạt động y tế và phân phát hàng cứu trợ, cũng như các hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến.
  • Tuần tra và trinh sát: Thông dịch viên thường đi cùng các đội tuần tra để hỏi đường, tìm hiểu thông tin về hoạt động của địch từ người dân địa phương, và cảnh báo về các mối đe dọa tiềm tàng.
Nhiều thông dịch viên là công dân Việt Nam làm việc cho quân đội Mỹ, hoặc là quân nhân trong QLVNCH được biệt phái sang làm việc với các đơn vị Mỹ. Họ được đào tạo về tiếng Anh và các thuật ngữ quân sự để có thể làm việc hiệu quả. Vai trò của họ rất nguy hiểm vì họ thường xuyên phải tham gia vào các hoạt động chiến đấu và là mục tiêu của đối phương.
 
 
Trại Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ (US Special Forces - SF), còn gọi là trại Polei Kleng (hoặc Plei Kleng), thường có một số lượng nhỏ cố vấn Mỹ đồn trú cùng với lực lượng địa phương lớn hơn.
Vào những năm đầu khi trại được thành lập (khoảng năm 1966), thường chỉ có một "A-Team" (Toán A) của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ, bao gồm khoảng 10 đến 12 cố vấn Mỹ. 
Lực lượng chiến đấu chính tại trại là các đơn vị địa phương người Việt Nam. Ban đầu, đây là các đơn vị Dân sự Chiến đấu Không chính quy (CIDG - Civilian Irregular Defense Group), chủ yếu là người Thượng (Montagnard), với quân số khoảng vài trăm người.
Về sau, khi các lực lượng Mỹ rút quân dần, trại được chuyển giao cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Cụ thể:
  • Tháng 8 năm 1970, trại được chuyển giao cho Biệt động quân Biên phòng (Border Rangers) QLVNCH.
  • Trong trận chiến vào tháng 5 năm 1972, khi trại bị tấn công dữ dội, lực lượng phòng thủ là Tiểu đoàn 62 Biệt động quân Biên phòng.
  • Vào thời điểm này, chỉ còn lại hai cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại trại và họ đã được di tản bằng trực thăng khi trận chiến ác liệt nhất. 
Tổng kết lại, số lượng cố vấn Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ luôn rất ít, trong khi số lượng Biệt động quân hoặc lực lượng địa phương người Việt phòng thủ trại lớn hơn nhiều, lên đến vài trăm người (khoảng 350-400 lính Biệt động quân trong trận đánh năm 1972). 
 
Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đã đến  vào ngày 1 tháng 10 năm 1964 và rời đi vào ngày 3 tháng 11 năm 1971. 
Các mốc thời gian cụ thể:
  • Đến Việt Nam: Đơn vị này được triển khai đầy đủ vào tháng 2 năm 1965, nắm quyền điều hành tất cả các hoạt động đặc biệt tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù các toán Lực lượng Đặc biệt đã có mặt tại Việt Nam từ những năm 1961 dưới dạng biệt phái tạm thời.
  • Rời đi: Liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt rút khỏi Việt Nam và trở về căn cứ Fort Bragg vào tháng 11 năm 1971. 
Trong thời gian tham chiến, đơn vị này đã đóng vai trò trung tâm trong các hoạt động huấn luyện lực lượng địa phương và thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, tác chiến phi truyền thống. 
 Câu hỏi rất hay! Trong Chiến tranh Việt Nam, lực lượng Đặc nhiệm Quân đội Hoa Kỳ (Fifth Group) thường dựa vào sự kết hợp của nhiều loại phiên dịch viên:

1. Phiên dịch viên bản địa và địa phương

  • Fifth Group thường làm việc chặt chẽ với các bộ tộc Montagnard và các nhóm dân tộc thiểu số khác ở vùng Cao nguyên Trung phần.
  • Họ tuyển dụng và huấn luyện phiên dịch viên bản địa biết tiếng địa phương và tiếng Việt. Những người này rất quan trọng để giao tiếp với lực lượng bộ tộc trong các chiến dịch CIDG (Civilian Irregular Defense Group).

2. Phiên dịch viên từ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH)

  • Khi phối hợp với các đơn vị ARVN (Quân đội Việt Nam Cộng Hòa) hoặc làm việc với bộ chỉ huy phía Nam, họ thường sử dụng phiên dịch viên do QLVNCH cung cấp.
  • Những phiên dịch viên này thường thông thạo thuật ngữ quân sự và tiếng Việt chuẩn.

3. Phiên dịch viên do Hoa Kỳ thuê

  • Fifth Group cũng có phiên dịch viên hợp đồng hoặc người Việt được Hoa Kỳ huấn luyện đi cùng các đội.
  • Một số binh sĩ Đặc nhiệm tự học tiếng Việt hoặc tiếng của các bộ tộc để giảm phụ thuộc vào phiên dịch viên.

Vì vậy, câu trả lời là: Họ sử dụng cả phiên dịch viên riêng (thường là người bản địa hoặc hợp đồng) và phiên dịch viên từ QLVNCH, tùy theo nhiệm vụ và địa điểm.


Bạn có muốn tôi dịch thêm phần chi tiết về cách họ tuyển dụng và huấn luyện phiên dịch viên, hay giải thích vai trò của họ trong các chiến dịch CIDG và giao tiếp văn hóa?


Cách tuyển dụng và huấn luyện phiên dịch viên

  • Tuyển dụng bản địa: Fifth Group thường tìm kiếm người từ các bộ tộc Montagnard hoặc dân tộc thiểu số khác, vì họ hiểu rõ địa hình và phong tục. Những người này được chọn dựa trên khả năng nói tiếng Việt và ngôn ngữ bộ tộc.
  • Huấn luyện cơ bản: Sau khi tuyển dụng, phiên dịch viên được huấn luyện về thuật ngữ quân sự, quy trình liên lạc, và đôi khi cả kỹ năng sinh tồn để có thể đồng hành trong các nhiệm vụ nguy hiểm.
  • Phiên dịch viên hợp đồng: Hoa Kỳ cũng thuê người Việt có trình độ tiếng Anh tốt, thường là giáo viên hoặc người từng làm việc với quân đội Mỹ, để đảm bảo tính chính xác trong giao tiếp.

Vai trò trong chiến dịch CIDG

  • Cầu nối ngôn ngữ: Phiên dịch viên giúp truyền đạt mệnh lệnh, huấn luyện chiến thuật, và giải thích kế hoạch cho lực lượng dân sự vũ trang (CIDG).
  • Xây dựng niềm tin: Họ không chỉ dịch ngôn ngữ mà còn giải thích phong tục, tránh xung đột văn hóa giữa binh sĩ Mỹ và người bản địa.
  • Hỗ trợ đàm phán: Trong nhiều trường hợp, phiên dịch viên đóng vai trò trung gian trong việc thuyết phục các trưởng làng tham gia chương trình CIDG.

Giao tiếp văn hóa

  • Người Mĩ thường không quen với phong tục địa phương, vì vậy phiên dịch viên còn là “cố vấn văn hóa”, giúp tránh những hành động vô tình gây xúc phạm.
  • Họ cũng giúp binh sĩ hiểu cách ứng xử phù hợp để duy trì quan hệ tốt với cộng đồng.