Wednesday, November 19, 2025

Trận An Lộc Wikipedia

Thời gian13 tháng 4 - 20 tháng 7 năm 1972
(3 tháng và 1 tuần)
Địa điểm
Kết quảViệt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ chiến thắng
Tham chiến
Việt Nam Cộng hòa Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa Việt Nam Cộng Hòa
Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Chỉ huy và lãnh đạo
Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Trà
  Bùi Thanh Vân[1]
  Nguyễn Thới Bưng[2]
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Minh
  Lê Văn Hưng
  Lê Nguyên Vỹ
Hoa Kỳ James Hollingsworth
  Richard J. Tallman [3]
Lực lượng
Toàn chiến dịch ~ 31,640+[4]:13
  •  Sư đoàn 5: 9.230
    • Trung đoàn 174
    • Trung đoàn 275
    • Trung đoàn E6
  •  Sư đoàn 7: 8.600
    • Trung đoàn 141
    • Trung đoàn 165
    • Trung đoàn 209
  •  Sư đoàn 9: 10.680
    • Trung đoàn 271
    • Trung đoàn 272
    • Trung đoàn 95
  • Trung đoàn 101: 760
  • Trung đoàn 205: 1.250
  • Trung đoàn Tăng thiết giáp 203: 800
    • Tiểu đoàn Tăng thiết giáp 20
    • Tiểu đoàn Tăng thiết giáp 21[5]
Trung đoàn Đặc công 429: 320
Hỗ trợ hoả lực:
  • Đoàn pháo binh 75: 3.830[4]:13
    • Trung đoàn Pháo binh 42d
    • Trung đoàn Tên lửa 208
    • Trung đoàn Pháo cao xạ 271
Việt Nam Cộng hòa Tại An Lộc: 7,500[6]:80

Tiếp viện: 25,000+
 Lữ đoàn Nhảy dù 1
 Liên đoàn Biệt cách dù 81
 Sư đoàn 21

Hỗ trợ đường không:
 Không quân Hoa Kỳ
 Hải quân Hoa Kỳ
Thương vong và tổn thất
Theo Hoa Kỳ ước tính:
10.000 chết
15.000 bị thương[8]
Theo hồ sơ quân y của Quân Giải phóng:
Khoảng 2.000 chết
5.000 bị thương [9]
~40 xe tăng, xe bọc thép bị phá huỷ hoặc hư hại[7]:131
Theo Việt Nam Cộng hòa:
2.280 chết
2.091 mất tích
8.564 bị thương[6]:187
38 chiến xa và xe thiết giáp, 32 khẩu pháo bị phá hủy
10 phi cơ, 20 trực thăng bị bắn rơi[6][10]
Theo Mặt trận:
Hơn 8.000 thiệt hại ở nội đô An Lộc[11]

 Trận An Lộc là trận chiến tại An Lộc.[12] Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong Chiến tranh Việt Nam.[13] Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì đây là một trận đánh hiệp đồng binh chủng trong đợt 1 của Chiến dịch Nguyễn Huệ (1 tháng 4 năm 1972 - 19 tháng 1 năm 1973).

An Lộc là địa bàn quân sự chiến lược tối quan trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì đây là cửa ngõ phía Bắc ngăn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về thủ đô Sài Gòn sau khi quận lỵ Lộc Ninh rơi vào tay họ ngày 7 tháng 4 năm 1972.

Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công trực tiếp thị trấn An Lộc gồm có Sư đoàn 9, 2 trung đoàn pháo binh 28 và 42, 4 tiểu đoàn pháo phòng không[14] và tiểu đoàn tăng thiết giáp 20, về sau tăng cường thêm tiểu đoàn tăng thiết giáp 21.[15] Tham chiến ở vòng ngoài là Sư đoàn 5, 7 và Đoàn C30B.

Phòng thủ thị trấn An Lộc, phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa có Sư đoàn 5 Bộ binh, Liên đoàn 3 Biệt động quân cùng lực lượng Dân vệ và Địa phương quân tỉnh Bình Long. Trong quá trình diễn ra trận đánh, Không lực Hoa Kỳ dùng trực thăng chở thêm hàng ngàn quân Việt Nam Cộng hòa vào An Lộc, đồng thời huy động gần 20.000 quân tìm cách giải vây bằng cách đánh theo Đường 13. Ngoài ra, Không lực Hoa Kỳ yểm trợ bằng gần 1.000 phi cơ và trực thăng các loại, từ ném bom, vận tải tới chuyển thương.

Bối cảnh trước trận đánh

Tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị Đảng lao động Việt Nam ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên (chiến dịch Trị Thiên), trong đó Đông Nam Bộ là hướng tiến công chính nhằm tiêu diệt 1 lực lượng quân sự lớn và mở rộng vùng chiếm được. Chủ trương ở Đông Nam Bộ là đánh gục Quân đoàn III và lực lượng tổng trù bị của Việt Nam Cộng hòa.

Cuối tháng 2, khi quá trình chuẩn bị đã hoàn tất, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ với lực lượng hùng hậu tương đương cấp Quân đoàn.

Trước lúc diễn ra trận đánh, Quốc lộ 13 đã bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Lúc này An Lộc bị cô lập, quân lực VNCH muốn chi viện chỉ còn cách dụng đường không.[16] Ngày 05/04/1972, Quân Giải phóng mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Ngày 07/04 Quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn quận Lộc Ninh, thọc sâu đánh sang quận Chơn Thành và bao vây chặt thị trấn An Lộc.[11]

Lực lượng Quân Giải phóng

Thường trực tại Bộ chỉ huy còn có:Hoàng Văn TháiPhạm HùngTrần Độ và Hoàng Cầm.[17]

Trực tiếp chỉ huy các đơn vị chiến đấu tại trận An Lộc có sư đoàn trưởng sư đoàn 9 Nguyễn Thới Bưng và sư đoàn trưởng sư đoàn 5 Bùi Thanh Vân. Trận đánh An Lộc do toàn bộ đội hình sư đoàn 9 tấn công, một phần của chiến dịch Nguyễn Huệ.

Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam cho chiến dịch Nguyễn Huệ được chuẩn bị kỹ lưỡng: Sư đoàn 5, 7, 9; Trung đoàn bộ binh 24, 271;[18] Trung đoàn đặc công 429; 2 Trung đoàn 28 và 42 Pháo binh Miền; 2 tiểu đoàn Tăng thiết giáp 20 và 21 và Đại đội 33 độc lập; Đại đội 52 Cao xạ tự hành; 4 tiểu đoàn pháo phòng không. Đội hình tấn công An Lộc ban đầu trên 10.000 quân, sau tăng lên 15.000 quân (thuộc 40.000 quân của chiến dịch Nguyễn Huệ). Đóng ở phía sau bộ tư lệnh Miền, Quân Giải phóng miền Nam chỉ còn 3 trung đoàn dự bị cuối cùng: 201, 205 và 207, nhưng cuối chiến dịch chỉ điều được trung đoàn 205 tăng cường phòng thủ cho sư đoàn 7. Để yểm trợ cho chủ lực, có 63 đơn vị bộ đội địa phương ở các tỉnh đội cùng phối hợp chiến đấu, nhưng sự tham gia của du kích lại khá hạn chế do chiến trường diễn ra chủ yếu trong khu vực đô thị. Lực lượng này đóng vai trò chủ chốt về hậu cần, trinh sát cho lực lượng chính quy, một số đơn vị địa phuơng khác tham gia di tản dân sự.

Tổng quân số của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong xung quanh An Lộc theo ước tính của Mỹ gồm 35.470 người, trong đó khoảng 15.000 trực tiếp tấn công An Lộc:[19][cần số trang]

 Quân Giải phóng miền Nam Việt NamQuân số
Sư đoàn 59.230
Sư đoàn 78.600
Sư đoàn 910.680
Đơn vị pháo binh 693.830
Các đơn vị khác3.130

Tại bộ tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ, đã có nhiều ý kiến về cách đánh khác mang hiệu quả cao hơn để có thể đuổi đối phương ra khỏi An Lộc nhanh nhất có thể. Theo tướng Trần Văn Trà, ông đề xuất ý tưởng đánh thẳng vào Chơn Thành, loại An Lộc ra khỏi mục tiêu chiến đấu; mất Chơn Thành, QLVNCH ở An Lộc phải tự rút lui. Ý tưởng này bị bác bỏ vì quá mạo hiểm.

Binh lực Mỹ - VNCH

Phòng thủ An Lộc ban đầu có: Liên đoàn 3 biệt động quân, 3 trung đoàn bộ binh 8, 7 và 52. Tổng cộng khoảng 7.500 quân. Trong quá trình tác chiến được tăng viện thêm 25.000 quân nữa, trong đó có 1 phần được tiếp viện cho nội đô An Lộc.

Quân đội Hoa Kỳ hầu như không có quân tham chiến trên bộ mà chủ yếu sử dụng Không lực Hoa Kỳ để yểm trợ về hỏa lực. Trong chiến dịch, Hoa Kỳ đã huy động hơn 1.000 phi cơ và trực thăng các loại, thực hiện 12.115 phi vụ ném bom, 6.473 phi vụ trực thăng và 268 phi vụ B-52 rải thảm, ném hơn 40.000 tấn bom các loại.

Trước Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa có nhiều lợi thế: bộ binh phòng thủ trong đô thị nên có lợi thế địa hình, và có cả ưu thế về trang thiết bị với sự yểm trợ mạnh từ Không lực Hoa Kỳ.

Chú thích

  1. ^ "Gặp mặt các nhân chứng lịch sử Chiến dịch Nguyễn Huệ giải phóng Lộc Ninh"baobinhphuoc.com.vn. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
  2. ^ "Tưởng nhớ Trung tướng Nguyễn Thới Bưng: Thước đo người lính là ở chiến trường"sggp.org.vn. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  3. ^ "Richard Tallman, Brigadier General, United States Army". The Virtual Wall. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  4. a b Willbanks, James (1993). Thiet Giap! The Battle of An Loc, April 1972 (PDF). U.S. Army Command and General Staff College.Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  5. ^ "Theo vết xích xe tăng"tapchicongthuong.vn. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2024.
  6. a b c Thi, Lam Quang (2009). Hell in An Loc: The 1972 Easter Invasion and the Battle that Saved South Vietnam. University of North Texas Press. ISBN 9781574412765.
  7. a b Ngo, Quang Truong (1980). The Easter Offensive of 1972 (PDF). U.S. Army Center of Military History. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2020.Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  8. ^ Tucker, Spencer C. (2011). The Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History (ấn bản thứ 2). ABC-CLIO. tr. 51. ISBN 9781851099603.
  9. ^ Hồ sơ cục Quân y: Chiến dịch Nguyễn Huệ 4/1972 - 1/1973: 13.412 thương binh chiếm 26,83% quân số; trong đó đợt 1 là 6.214 chiếm 13,42% quân số. Số tử vong hoả tuyến toàn chiến dịch được ghi nhận là 3.961 chiếm 7,92% quân số
  10. ^ https://books.google.com.vn/books?id=yQTm8SnzPxsC&pg=PA187&dq=an+loc+arvn+2,280&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjFrbPnirTPAhUdR48KHcKSAisQ6AEIGzAA#v=onepage&q=an%20loc%20arvn%202%2C280&f=false
  11. a b http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Buc-thu-gui-tu-ben-kia-chien-tuyen-340599/
  12. ^ An Lộc là tỉnh lỵ tỉnh Bình Long thời Việt Nam Cộng hòa, nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước
  13. ^ Đợt 1 là cuộc tấn công Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Quân khu I của Việt Nam Cộng hòa vào hạ tuần tháng 3. Đợt 2 là mở mặt trận Bình Long thuộc Quân khu 3 vào thượng tuần tháng 4. Và đợt 3 là cuộc tấn công Kontum và Pleiku thuộc Cao nguyên Trung phần Quân khu 2 vào trung tuần tháng 4 theo chiến lược "đốt giai đoạn". - Andrew Wiest, ed. Lâm Quang Thi. Rolling Thunder In A Gentle Land. Chapter 6. Oxford: Osprey Publishing, 2006
  14. ^ Nguồn: Bách khoa Quân sự 2004
  15. ^ Nguồn: Lịch sử bộ đội Tăng-Thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam và Quân khu 7
  16. ^ Hồi ký Đời Binh nghiệp, Chương V, tác giả Thượng tướng Nguyễn Thế Trị
  17. ^ Bộ Tư lệnh miền-Hồ Sĩ Thành, Trần Thị Nhung-Nhà xuất bản Trẻ
  18. ^ Trong quá trình thực hiện chiến dịch, 2 trung đoàn 24 và 271 tổ chức thành đoàn C30B, hay còn gọi là Đoàn Bình Long
  19. ^ Source: Major General James F. Hollingsworth, "Communist Invasion in Military Regional III," unpublished narrative, 1972. (Microfiche Reel 44, University Publications of America: Records off Military Assistance Command, Vietnam.)

No comments:

Post a Comment