Thursday, December 11, 2025

Where is Lao

Lào ở đâu?

Lào là một quốc gia không giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc và Myanmar, phía Đông giáp Việt Nam, phía Nam giáp Campuchia, phía Tây giáp Thái Lan và sông Mê Kông.

Vị trí gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông khiến Lào trở thành yếu tố quan trọng trong “Thuyết Domino” của Tổng thống Dwight D. Eisenhower nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Eisenhower từng nói với Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nếu Lào mất, phần còn lại của Đông Nam Á sẽ theo sau.” Trong ngày đọc diễn văn chia tay năm 1961, Tổng thống Eisenhower đã phê chuẩn việc CIA huấn luyện lực lượng chống cộng sản trên núi rừng Lào. Nhiệm vụ của họ: phá vỡ các tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh sang Việt Nam.

Những người kế nhiệm Eisenhower tại Nhà Trắng – John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và Richard Nixon – đều phê chuẩn việc tăng cường yểm trợ không quân cho lực lượng du kích, nhưng không công khai. Hiệp định quốc tế về trung lập của Lào năm 1962, được ký bởi Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Hoa Kỳ và 10 quốc gia khác, cấm các bên trực tiếp xâm lược Lào hoặc thiết lập căn cứ quân sự tại đây. Cuộc chiến bí mật ở Lào đã bắt đầu.


Lịch sử Lào

Trước Chiến tranh Lạnh, Lào đã nhiều lần bị các nước láng giềng can thiệp. Năm 1353, Fa Ngum thành lập quốc gia Lào đầu tiên có tên “Lan Xang” – Vương quốc Triệu Voi. Từ 1353–1371, ông chinh phục phần lớn lãnh thổ Lào ngày nay và một phần Việt Nam, Đông Bắc Thái Lan, đồng thời mang Phật giáo Theravada và văn hóa Khmer từ vương quốc Angkor (Campuchia ngày nay) vào Lào.

Qua nhiều thế kỷ, các nước láng giềng bị chinh phục đã phản công, và người Thái chiếm phần lớn lãnh thổ Lào từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Lào ngày nay được hình thành từ nhiều nhóm sắc tộc khác nhau với ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt.

Năm 1893, Pháp tuyên bố Lào là một phần của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Với Pháp, việc có Lào làm xứ bảo hộ là cách để kiểm soát sông Mê Kông – tuyến thương mại quan trọng của Đông Nam Á.

Ảnh hưởng của Pháp tại Lào suy yếu lần đầu năm 1945, khi Nhật chiếm đóng Lào trong những ngày cuối của Thế chiến II. Khi bom nguyên tử rơi xuống Nhật, Lào tuyên bố độc lập dưới chính phủ Lào Issara (“Lào Tự Do”) của Hoàng thân Phetsarath. Nhưng Pháp đã quay lại giành quyền kiểm soát năm sau đó.

Lào giành độc lập hoàn toàn năm 1954 sau chiến thắng của Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo trước Pháp tại trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Geneva sau đó chia Việt Nam thành hai miền và buộc Pháp từ bỏ quyền lợi ở Đông Nam Á. Hoa Kỳ không ký hiệp định này vì lo ngại rằng khi Pháp rút đi, Đông Nam Á sẽ rơi vào tay cộng sản.

Nội chiến Lào và Pathet Lào

Hoa Kỳ theo dõi sát sao khi Pathet Lào ngày càng được ủng hộ tại Lào mới độc lập. Pathet Lào là một nhóm cộng sản thành lập tại căn cứ Việt Minh năm 1950 trong thời Pháp. Họ phụ thuộc nhiều vào viện trợ của Việt Nam, lãnh đạo là Hoàng thân Souphanouvong – “Hoàng tử Đỏ”. Ông là con của một hoàng tử Luang Prabang và một thường dân, được giáo dục tại Việt Nam, trở thành môn đồ của Hồ Chí Minh và sau này lãnh đạo phe đối lập chống lại người anh cùng cha khác mẹ – Souvanna Phouma, Thủ tướng Lào nhiều nhiệm kỳ (1951–1954, 1957–1958, 1960 và 1962–1972). Phouma chủ trương chính phủ liên hiệp cân bằng giữa Pathet Lào và các lực lượng bảo thủ.

Quyền lực của Phouma rất mong manh. Dưới thời ông, quân chính phủ và Pathet Lào bắt đầu đụng độ ở vùng Đông Bắc giáp Việt Nam. Công khai, Tổng thống Kennedy tuyên bố ủng hộ việc “trung lập hóa” Lào – nhưng trên thực tế lại khác xa so với lý thuyết.


Đội quân bí mật của CIA

Năm 1960, CIA tiếp cận Vang Pao – thiếu tướng Quân đội Hoàng gia Lào, người dân tộc H’Mông – để làm chỉ huy đội quân bí mật chống Pathet Lào. Người H’Mông vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, sống ở vùng núi hẻo lánh Lào trong cảnh nghèo khó, và có truyền thống chống lại chính quyền. CIA đã khai thác lịch sử xung đột này để phục vụ mục tiêu của mình.

Vang Pao có kinh nghiệm chiến đấu chống Pháp và Nhật, được thuộc hạ ca ngợi vì dũng cảm. CIA khởi động Chiến dịch Momentum, trang bị và huấn luyện người H’Mông để đối đầu Pathet Lào trong cuộc chiến ủy nhiệm ngày càng mở rộng.


Chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ tại Lào

Chiến tranh trên bộ với quân Mỹ tại Lào không được tính đến. Tổng thống Kennedy viết từ năm 1961 rằng: “Lào… là một nơi cực kỳ bất lợi để tiến hành chiến dịch. Địa lý, địa hình và khí hậu đều là những trở ngại sẵn có.” Ném bom Lào được xem là cách an toàn hơn để cắt đứt tuyến tiếp tế cộng sản sang Việt Nam trước khi chúng được dùng chống lại quân Mỹ.

Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom Lào năm 1964, sử dụng máy bay AC-130 và B-52 mang bom chùm trong các phi vụ bí mật xuất phát từ Thái Lan. Theo Al Jazeera, Mỹ đã thả lượng bom tương đương một máy bay đầy bom mỗi 8 phút, 24 giờ mỗi ngày, suốt 9 năm.

Mục tiêu chính là phá vỡ tuyến tiếp tế cộng sản trên đường mòn Hồ Chí Minh và tại Xépôn – ngôi làng gần căn cứ không quân Pháp cũ, nay do Bắc Việt kiểm soát. Năm 1971, Xépôn là mục tiêu của Chiến dịch Lam Sơn thất bại, khi Mỹ và Nam Việt Nam tìm cách chặn đường mòn Hồ Chí Minh.

Hậu quả và di sản

Đến năm 1975, một phần mười dân số Lào – khoảng 200.000 dân thường và quân nhân – đã chết. Gấp đôi số đó bị thương. 750.000 người, tức một phần tư dân số, trở thành người tị nạn – bao gồm cả tướng Vang Pao. Tài liệu giải mật cho thấy 728 người Mỹ chết tại Lào, phần lớn là nhân viên CIA. Cuộc chiến bí mật ở Lào, hay Nội chiến Lào, đã tạo tiền lệ cho một CIA ngày càng quân sự hóa, có quyền tham gia các cuộc xung đột bí mật trên toàn cầu.

Tại Lào, di sản bom Mỹ vẫn tiếp tục gây thảm họa. Từ 1964 đến nay, hơn 50.000 người Lào đã chết hoặc bị thương vì bom Mỹ, 98% là dân thường. Ước tính 30% số bom thả xuống Lào không nổ khi va chạm, và trong những năm sau khi chiến dịch ném bom kết thúc, 20.000 người đã chết hoặc bị thương bởi khoảng 80 triệu quả bom còn sót lại.

Năm 2016, Tổng thống Barack Obama trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên thăm Lào. Ông cam kết thêm 90 triệu USD viện trợ để loại bỏ bom chưa nổ, ngoài 100 triệu USD đã chi trước đó. Công việc rà phá bom vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

No comments:

Post a Comment