Tuesday, November 28, 2023

SỐ ĐẶC BIỆT #24 | Trang Sử Bị Lãng Quên Của "NGƯỜI NÙNG"

Đầu tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, nhận lời mời của Quốc trưởng bảo Đại thành lập nội các mới và làm Thủ tướng, thay Hoàng thân Nguyễn Phước Bửu Lộc. Tham vọng chánh trị của ông thậm chí còn xa và nhiều hơn vậy. Ông muốn xây dựng một chánh thể Cộng Hòa ở miền Nam, do mình làm Tổng thống, loại trừ hoàn toàn tàn dư phong kiến, ảnh hưởng của Bảo Đại và khuynh hướng thân Pháp trên ít nhứt một nửa lãnh thổ Việt Nam. Dù được người Mỹ ủng hộ, ông Diệm cũng không dễ vượt qua những rào cản nhiều mặt để đạt mục đích, nhứt là khi ông không hề có lấy một đơn vị quân đội nào hậu thuẫn. Quân đội Quốc gia Việt Nam vốn nằm trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Pháp xây dựng và đào tạo, huấn luyện đương nhiên chỉ trung thành với Quốc trưởng, không ủng hộ tân Thủ tướng trước sau vẫn bộc lộ tinh thần chống Pháp. Quân đội các giáo phái (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài...) vì các vấn đề sâu xa của địa phương miền Nam mà ra sức ngăn cản mục tiêu thống nhứt quân đội Quốc gia, xây dựng nền Cộng Hòa của Thủ tướng người gốc Bắc - Ngô Đình Diệm.
 
Đại Tá Vòng A Sáng

Sanh ngày 19 tháng 3 năm 1902 tại làng Tân Mai, Quận Hà Cội, Tỉnh Hải Ninh;

- Năm 1914: học viên Trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo, Tỉnh Quảng Yên, tốt nghiệp năm 1920. Gia nhập quân đội Pháp và thăng cấp Thượng Sĩ năm 1931;

- Năm 1932 được chỉ định theo học trường sĩ quan Fréjus, Pháp; tốt nghiệp năm 1935 với cấp bậc Thiếu Úy;

- Năm 1940 thăng cấp Trung Úy;

- Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đải chính lật đổ Pháp trị tại Đông Dương, Trung Úy Vòng A Sáng và một nhóm người Nùng gia nhập đơn vị Pháp rút lui sang Tàu và đóng quân tại Tháp Vạn Đại Sơn nằm giữa Quảng Đông và Quảng Tây;

- Thăng cấp Đại Úy ngày 1 tháng 6 năm 1945;

- Đầu năm 1946, phụ tá cho Trung Tá Pháp Chỉ Huy Trưởng một đơn vị quân sự từ Phong Thanh tiến tới Cô Tô và Văn Hóa, dùng đơn vị đầu cầu này tấn công và tái chiếm tỉnh Hải Ninh tháng 8 năm 1946; ngày 16 tháng 3 năm 1947, đơn vị này tiến tới Mống Cáy.

Ngày 14 tháng 7 năm 1948, Địa Hạt Tự Trị Hải Ninh được thiết lập; trở nên lãnh tụ của Địa Hạt Tự Trị Hải Ninh-Việt Nam ngày 17 tháng 7 năm 1948. Địa Hạt Tự Trị được Quốc Trưởng Bảo Đại chính thức công nhận và được sát nhập vào Hoàn Triều Cương Thổ Miền Bắc Việt Nam.

- Đầu năm 1949, thăng cấp Thiếu Tá;

- Đầu năm 1951, thăng cấp Trung Tá;

- Ngày 1 tháng 8 năm 1954, thăng cấp Đại Tá, được chỉ định Tư Lệnh Vùng Duyên Hải từ Tỉnh Hải Ninh đến Tỉnh Quảng Yên;

- Cuối năm 1956, giải ngũ do đáo hạn tuổi theo cấp bập, một biện pháp của một điều lệ mới ban hành trong quân đội, như thể chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm loại trừ phần tử nghi ngờ thân Pháp;

- Năm 1966, Chủ Tịch, Hiệp Hội Tương Trợ Cao Nguyên Bắc Việt Nam;

- Năm 1966, trúng cử vào Hạ Nghị Viện, tỉnh Bình Thuận, Quốc Hội;

- Năm 1967, trúng cử Nghị Sĩ Quốc Hội; Khối Đoàn Kết Dân Tộc Thiểu Số;

- Năm 1975, chết trên tàu Trường Xuân trong khi chạy trốn cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

(Soạn thảo bởi ông Hoàng Gia Cầu, con thứ nhì của ông Vòng A Sáng). 





1 phần lịch sử Sông Mao 
越南山涯族嘅民族英雄-黃福盛(黃亞生)
Dân tộc Ngái là 1 trong 54 dân tộc tại VN, có bản sắc văn hoá riêng biệt, nhưng do thời thế loạn lạc con cháu của người Ngái thường sống chung với người Hoa nên cũng biết nói thêm tiếng Quảng Đông
Dân tộc Ngái xưa kia có trang phục, văn tự và chữ viết riêng. Dưới đây là tư liệu bài viết tóm tắc về Ông Vòng A Sáng vị anh hùng dân tộc của người Ngái mà ad sưu tầm được, để mọi người cùng xem để hiểu hơn về dân tộc Ngái đã bị lịch sử lãng quên, cái này không bàn chính trị nha các bạn, chỉ là úp mọi người trao đổi kiến thức thôi
Ông Vòng A Sáng, tên chữ là Phúc Thịnh (福盛), thường gọi A Sáng (亞生), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1902 tại Tấn Mài, huyện Hà Cối, tỉnh Hải Ninh (nay là huyện Hải Hà, Tỉnh Quảng Ninh)
Ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân Núi Đèo (Quảng Yên) năm 1914, tốt nghiệp năm 1920 và phục vụ trong quân đội Pháp; thăng cấp Thượng Sĩ năm 1931. Thời đó quân sĩ chỉ thăng tới Thượng Sĩ là cao nhất, thuộc hàng hạ sĩ quan cao cấp, muốn lên Thiếu Uý phải tốt nghiệp trường sĩ quan. Năm 1932, Ông nhập học trường sĩ quan Fréjus, phân hiệu Sancier tại Pháp, tốt nghiệp năm 1935 với cấp bậc Thiếu Uý. Ông được thăng cấp Trung Uý năm 1940, Đại Uý (1945), Thiếu Tá (1949), Trung Tá (1951) và Đại Tá (1954). Năm 1956 bị cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) nghi ngờ Ông thân Pháp nên ép Ông giải ngũ trước hạn tuổi
Đại Tá Vòng A Sáng được biết không những như là người sáng lập ra Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh (1947-1953), mà lại còn như sáng lập một sư đoàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà Sư Đoàn 3 Dã Chiến, (1955), tiền thân của Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1959). Ông cũng còn được biết đến như là người đã có công trong việc đưa hơn 30 ngàn người Nùng di cư từ Khu Tự Trị vào Nam năm 1954, khai khẩn vùng đất hoang vu Sông Mao thành nơi an cư lạc nghiệp cho dân di cư. Ông cũng là người sáng lập Hội Tương Tế Thượng Du Bắc Việt Di Cư (1966). Ông còn được biết như là một lãnh tụ đã đấu tranh cho quyền lợi cho mọi dân tộc thiểu số miền Nam Việt Nam trong đó có người Nùng khi trúng cử Nghị Sĩ Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà 1967-1975).
Về sự nghiệp sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh, những cựu quân nhân khu Nùng còn sống rải rác khắp thế giới như ở Pháp (Toulouse), Mỹ, Trung, Việt mà người viết đã gặp đều cho rằng Ông Vòng-A-Sáng đã khôn khéo vận dụng đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Nhân lúc sau khi Nhật đầu hàng quân đội đồng minh, Ông dẫn đại quân từ Phòng Thành, Quảng Tây (Trung Quốc) theo giòng sông Hồng đi thuyền buồm viễn chinh về đóng tại đảo Cô Tô và vùng Vạn Hoa, nơi có địa thế thuận lợi cho việc tái chiếm Móng Cái. Cánh thuyền buồm Trung Hiếu (忠孝) này ngày sau được dùng làm huy hiệu và biểu tượng việc tái chiếm Móng cái và sáng lập Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh. Nhờ địa thế thuận lợi, đại quân Vòng A Sáng đánh đâu thắng đó. Do thời cuộc nhiễu nhương, dân lành khổ sở, nay có đoàn quân về giải cứu nên trên đường tiến quân có hàng trăm tráng niên gia nhập đoàn quân bách thắng. Nhờ thêm yếu tố nhân hoà này đoàn quân dưới sự lãnh đạo của Đại Uý Vòng A Sáng chẳng bao lâu, chỉ từ tháng 8/1946 đến tháng 7/1947, đã tiến vào Móng cái. Ngày 14/7/1946, Đại Uý Vòng A Sáng thay mặt cho Hội Đồng Quân Chính Hải Ninh tuyên bố thành lập Territoire Autonome Nung tức Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh Bắc Bộ, Đông Dương thuộc Pháp, dưới sự bảo trợ của Toàn Quyền Émile Bollaert.
Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh có Thủ Lĩnh là Đại Uý Vòng A Sáng; Phó Thủ Lĩnh là Trung Uý Linh Quang Viên lấy Móng Cái làm thủ phủ, tiếng Ngái làm ngôn ngữ riêng bên cạnh tiếng Pháp, Trung, và Việt được dùng trong văn thư và giao tế thường nhật .
Khu Tự Trị là một vùng đất sơn thanh thuỷ tú, bãi biển mênh mông gồm có 8 huyện và 1 hải đảo: Moncay (thủ phủ), Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bình Liêu (bao gồm Hoành Mô kéo dài qua Tồng Chống, Tài Lốc vào đến Thập Vạn Đại Sơn, Trung Quốc) , Định Lập, Ba Chẽ, Vạn Hoa và đảo Cô Tô. Khu Tự Trị có các Bộ Công Thương Nghiệp, Nông Ngư Nghiệp, Giáo Dục, Tư Pháp, Quốc Phòng. Diện tích Khu Tự Trị là 4.500km vuông. Dân chúng Khu Tự Trị sống trong cảnh an cư lạc nghiệp. Ngoài tên các huyện, đảo ở trên người Nùng còn hay nhắc đến các địa danh của Khu Tự Trị như: Nà Slố, Pản Pạt, Mả Xề Nều, SlắnCái (Tiên Yên), Hóong Hổi (Hòn Gai), Khẳm Plả (Cẩm Phả), Tồng Lui (Đồng Rui), Chốc Plài Sán, Tắn Mài, Thán Plún Lẻng, Pắc Phống Sềnh, Vòong Mố Lẻng, Tài Vòong Mố Lẻng, Tồng Mố (Hoành Mô), Mả Thàu Sán...
Đặc sắc nhất là Ban Tu Thư Bộ Giáo Dục Khu Tự Trị đã cho biên soạn một cuốn tự điển chữ Ngái 'Nổng Vủn Slu Tèn' (儂文字典) dùng mẫu tự La Tinh phiên âm đọc theo phát âm chữ Việt giọng Bắc, nguyên âm hay phụ âm (đơn hay kép) nào mà không có trong chữ Việt thì sáng chế ra (như 'slu' trong slu tèn ở trên, hay 'plủi lồ' nghĩa là ông béo) và nhiều cuốn sách tập đọc-học thuộc lòng chữ Ngái. Hồi nhỏ, người viết vẫn ê a quyển 'ngải tì thốc Ngái sú' (tạm dịch: chúng ta học tiếng Ngái), trong đó có nhiều chuyện vui cho nhi đồng như 'Slám thẻo chú chày (ba con lợn con), 'Á Zốc cai thai hoi' (Cái hại của thằng Zốc), 'Liòong chạc slệt mả cô tsoong' (hai con rệp đi kiện) v.v...
Dân cư Khu Tự Trị Nùng ngoài một số ít người Kinh, đa số là người (Tsín Lẩu, Ngái, Sán Chỉ, Tày, Thổ, Sán Dìu, Mèo, Hoa) sinh sống lâu đời dọc 2 bên bờ sông Bắc Luân. Đọc tới đây ắt có người đặt câu hỏi rằng:” Tại sao gọi là Khu Tự Trụ Nùng mà không thấy có người Nùng trong số những dân tộc sinh sống tại Khu Tự Trị Nùng? Để trả lời câu hỏi này, người viết phải mở một dấu "Người Nùng hay dân tộc Nùng là từ dùng để gọi chung các dân tộc sinh sống trong Khu Tự Trị Nùng, cũng như Tai là từ dùng để chỉ người Thái,Tày, Thổ, Mèo … dân tộc thiểu số sinh sống trong Khu Tự Trị Thái; hay nói cách khác cũng như từ người Việt Nam dùng để gọi chung dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số (Chàm, Thượng, H'Mong, Vân Kiều, Tày, Hoa ...) cùng sống trên mảnh đất hình cong chữ S vậy.
Công lao đưa người Nùng Khu Tự Trị Hải Ninh di cư vào Nam Việt bắt đầu 1954 Trung-Tá Vòng-A-Sáng thống lĩnh toàn thể Quân Cán chính cùng quyến thuộc và những người muốn đi theo vào Nam. Lúc đầu, đoàn người tạm cư tại Ba Ngòi (Cam Ranh) sau để tiện có nước sinh hoạt đoàn người di cư kéo về sống tập trung quanh sông Ma Ó (tức sông Luỹ, một con sông có nguồn từ trên núi Di Linh đi xuống qua Cà Long, một nhánh chạy về hướng Đông đổ vào hồ Cà Giây, các ngòi từ đó tản ra các vùng Bá Ghe, Tài Slám Cáu xuống Cầu Bom (Sông Mao) rồi ra biển, giòng chính tiếp tục chảy xuống vòng lượn qua Sông Luỹ, Suối Nhuôm, Lương Sơn, Xuân Quang, chảy qua dưới cầu Chợ Lầu, đổ xuống Phan Rí rồi ra biển).
Thị Trấn Sông Mao từ đấy mà thành hình và là thủ phủ của quận Hải Ninh với Quận Đường đặt gần ga Sông Mao, thuộc tỉnh Bình Thuận. Người Nùng ra công khẩn hoang lập ấp, biền tri thủ túc. Qua bao gian khổ, người Nùng đã biến nơi rừng thiêng nước độc này thành ruộng rẫy trù phú
Sông Mao cũng là nơi Đại Tá Vòng A Sáng đưa tiểu đoàn 6 Nùng vào hợp chung lại với các tiểu đoàn 32, 67, 71, 72 và 75 thành sư đoàn 6 Dã Chiến (1/8/1956). Sư đoàn 6 Dã Chiến có một thời gian ngắn mang tên sư đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1/11/1955, sư đoàn 41 Dã Chiến đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến, bộ tư lệnh lúc đầu đóng tại Tấn Mài, trung tâm huấn luyện quân sĩ trải dài dọc theo bờ khu quân sự của đường Tự Do (Thống Nhất bây giờ) với tụ điểm quan trọng nhất nằm ngay ngã 3 hai đường chính của thị trấn Sông Mao: Tự Do-Thống Nhất (đường Nguyễn Văn Trỗi bây giờ). Những người Sông Mao sinh vào khoảng 1954 trở về trước có lẽ còn trong tiềm thức văng vẳng ban ngày tiếng kèn thúc quân vang vang rộn ràng; ban đêm tiếng gõ mõ cốc cốc đều đều, lâu lâu pha lẫn một tiếng khánh từ Quan Âm Miễu vọng lên khắp xóm làng Sông Mao yên tĩnh thời đó.
Năm 1966, Ông được bầu làm Hội Trưởng Hội Thượng Du Bắc Việt Tương Tế. Năm 1967, Ông đắc cử Thượng Nghị Viện Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hoà, được bầu giữ chức Chủ Tịch Khối Đoàn Kết Dân Tộc Thiểu Số tại Thượng Nghị Viện. Ở cương vị dân cử này Ông Vòng A Sáng đã đấu tranh giành được nhiều quyền lợi cho đồng bào thiểu số miền Nam lẫn Thượng Du Bắc Việt di cư, nổi bật nhất là về mặt giáo dục và đào tạo. Nhiều sĩ quan, sinh viên đại học các ngành, học sinh Nùng đã được hưởng quyền ưu tiên do quy chế dành cho đồng bào thiểu số. Nhiều đứa trẻ ngơ ngác của những ngày đầu ở Sông Mao, những em học sinh các trường Việt-Nông, Dục Anh, Sông Mao A, Sông Mao B, Đa Minh (Hải Ninh sau này) đã trở thành những sĩ quan QLVNCH
Ông qua đời ngày 2/5/1975 khi cùng gia đình chạy loạn trên chiếc tàu Trường Sơn và thuỷ táng trên biển cả.
Ông Vòng A Sáng lấy vợ họ Liêu, vốn người huyện Bình Liêu, sinh được 11 người con: 8 nam, 3 nữ.
Hoàng Phúc Thịnh (Vòng A Sáng) tiên sinh đã trọn đời vì dân, công đức của Ông đối với người Nùng rất lớn. Ông đã viết lên trang sử oai hùng hiển hách của dân tộc Nùng từ thời Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh đến khi vào Sông Mao.
ps: Nùng( khu tự trị Nùng) ở trong bài này không phải là dt Nùng ngoài Bắc hiện nay. Cám ơn bạn fb Vòng Cá Phừng đã góp bài
 
Lời tựa:
Trong dòng chảy của dân tộc Việt, có những người sống và chết đều lặng lẽ và nhẹ nhàng như một cơn gió, nhưng cơn gió ấy cũng tạo một gợn sóng nhỏ trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Bài rất hay và nhiều thông tin thú vị. Các mem nên đọc
HỒI ỨC SÔNG MAO - CUỘC THIÊN DI CUỐI CÙNG.

Đầu tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chính, nhận lời mời của Quốc trưởng bảo Đại thành lập nội các mới và làm Thủ tướng, thay Hoàng thân Nguyễn Phước Bửu Lộc. Tham vọng chính trị của ông thậm chí còn xa và nhiều hơn thế. Ông muốn xây dựng một chính thể Cộng Hòa ở miền Nam, do mình làm Tổng thống, loại trừ hoàn toàn tàn dư phong kiến, ảnh hưởng của Bảo Đại và khuynh hướng thân Pháp trên ít nhất một nửa lãnh thổ Việt Nam.

Dù được người Mỹ ủng hộ, ông Diệm cũng không dễ vượt qua những rào cản nhiều mặt để đạt mục đích, nhất là khi ông không hề có lấy một đơn vị quân đội nào hậu thuẫn. Quân đội Quốc gia Việt Nam vốn nằm trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Pháp xây dựng và đào tạo, huấn luyện đương nhiên chỉ trung thành với Quốc trưởng, không ủng hộ tân Thủ tướng trước sau vẫn bộc lộ tinh thần chống Pháp. Quân đội các giáo phái (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài...) vì quyền lợi cục bộ cũng lăm le trở thành kỳ đà cản mũi mục tiêu thống nhất quân đội Quốc gia, xây dựng nền Cộng Hòa của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Nan đề bắt đầu có lời giải khi chỉ nửa tháng sau đó, 8400 tay súng của Binh đoàn Nùng, tức Sư đoàn 6 Sơn cước trong quân đội Liên Hiệp Pháp, tức lực lượng quân đội của Khu tự trị Hải Ninh ở tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh) cùng gia đình họ, gồm tới hơn 30.000 người di cư vào Nam. Họ trở thành lực lượng quân bị đầu tiên hậu thuẫn cho cơ đồ chính trị của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Nhóm thiện chiến nhất của đơn vị này được tách ra, làm nòng cốt hình thành nên Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng thống, đóng quân ở vị trí mà ngày nay là hai trường Đại học KHXHNV và Đại học Dược, góc ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Lê Duẩn, giao cho Trung tá, sau thăng Đại tá Lê Quang Tung chỉ huy.

Phần lớn quân số còn lại, từ tháng 8-1954 đã được phiên chế thành Sư đoàn Nùng số 6 và các tiểu đoàn dã chiến số 32, 67, 71, 72, 75. Trong số này, khi chuyển vào Nam, chỉ có Sư đoàn 6 là được giữ nguyên lực lượng quân số người Nùng và người các dân tộc thiểu số từ Đông Bắc Việt chuyển vào. Các tiểu đoàn còn lại đều được chia đôi quân số. Một nửa trở thành nòng cốt để lập nên các binh chủng mới như Biệt kích - Người nhái, Biệt Động Quân, Dù,...v.v. Nửa kia tiếp tục tuyển thêm quân, giữ lại phiên hiệu, quân số đủ cho cấp tiểu đoàn. Ngày 1-8-1956, tại sông Mao, Bình Thuận, tiểu đoàn 6 Nùng hợp nhất với 5 tiểu đoàn kia, hình thành nên sư đoàn 6 Dã Chiến. Một thời gian ngắn sau đó, nó mang tên Sư Đoàn 41 Dã chiến, rồi Sư đoàn 3 Dã chiến. Khi lực lượng binh sĩ Nùng cũ đã hết tuổi phục vụ, giải ngũ hết, Sư đoàn toàn lính mới này được đổi phiên hiệu, trở thành Sư đoàn 5 BB. Thời điểm đảo chính lật đổ anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1-11-1963), Sư 5 BB vẫn do ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Đệ nhị Cộng Hòa sau này làm Tư lệnh. Oái oăm tahy, đây cũng là một trong số những đơn vị quân đội dự phần lật đổ dẫn đến cái chết của anh em ông Diệm. Dù thế nào đi chăng nữa, Sư đoàn 5 BB mà tiền thân là Sư đoàn Nùng vẫn được xem là đơn vị đầu tiên được thành lập và phiên chế cấp Sư đoàn của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Có rất nhiều chuyện để tìm hiểu, để kể, về lực lượng lính Nùng này. Tuy gọi chung là Nùng, song trên thực tế, cư dân của Khu tự trị Hải Ninh, Quảng Yên là một tập hợp đa sắc tộc gồm người Tsín Lẩu, Ngái (người Hakka gốc gác từ khu vực đảo Hải Nam, Trung Quốc), Sán Chỉ, Tày, Thổ, Thái, Mán, Mèo... và cả một số người Kinh được di dân ngược ra Đông Bắc từ thời nhà Nguyễn. Họ giống như những người Di-gan của phương Đông, không Tổ Quốc. Lãnh địa cư trú của họ là dọc theo hai bờ sông Bắc Luân, từ khu vực Hà Cối, Móng Cái chạy đến thị trấn Phòng Thành, Quảng Tây, Trung Quốc. Đây là phần đuôi cuối cùng của khu vực Thập Vạn Đại Sơn hiểm trở trải dài 600 km của Trung Quốc từ Tây Song Bản Nạp (Xishuangbana 西雙版納 giáp biên giới với Myanmar) thuộc tỉnh Vân Nam, qua Quảng Tây, chạm đến Quảng Đông .

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Một số quân Nùng đồn trú đã theo đã theo một Trung tá Pháp và Đại úy Vòng A Sáng (黃亞生, đọc là Woòng A Sáng, Hoàng A Sáng hoặc Hoàng Á Sinh) chạy về làng Tùng Mao (松毛) huyện Malipo (Ma Lật Ba 麻栗坡), Vân Nam, Trung Quốc, cách cửa khẩu Thanh Thủy, Hà Giang của Việt Nam khoảng 15 km lánh nạn. Làng Tùng Mao chính là nơi chôn rau cắt rốn, cố hương của Vòng A Sáng trước khi đời binh nghiệp đưa thân phụ ông và gia đình xuôi về hướng Đông Nam, định cư tại khu vực Móng Cái, Việt Nam.

Khi yên tâm là đã đào thoát hoàn toàn khỏi sự truy đuổi của quân Nhật, Vòng A Sáng và các thủ hạ tâm phúc đã lộn ngược trở lại thị trấn Phòng Thành, tỉnh Quảng Tây, chiêu mộ thêm 300 tay súng gồm hầu hết là chiến binh vô chủ từng phục vụ các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng cát cứ thời Trung Hoa Dân Quốc. Vòng A Sáng đưa họ về Tùng Mao, huấn luyện họ thành một đạo binh riêng. Giữa tháng 10 -1945, đạo binh này tập kết lại Phòng Thành. Hai tháng sau, từ Phòng Thành, đạo quân này chia làm đôi giương cờ Hiếu Nghĩa, dùng thuyền buồm quay lại Việt Nam.

Cánh thứ nhất do trung úy Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy chiếm đảo Cô Tô. Cánh thứ hai do Đại úy Vòng A Sáng chỉ huy, chuẩn úy Phạm Văn Đỗng làm phó đổ bộ tấn công lên Vạn Hoa, lấy đó làm bàn đạp giành lại quyền lực từ tay đám thổ phỉ Việt Cách, Việt Quốc. Đám này được Tưởng Giới Thạch điều sang giải giới vũ khí quân Nhật nhưng đã ở lại cát cứ, không chịu quay về khi xong nhiệm vụ.

Hàng chục trận đánh lớn nhỏ đã diễn ra. Quân Hiếu Nghĩa đánh đâu thắng đó. Khi Pháp trở lại, đạo quân của Vòng A Sáng được công nhận thuộc phiên chế quân đội Pháp, nhận thêm nhiệm vụ đánh quân du kích Việt Minh. Ngày 14-7-1948, Vòng A Sáng tuyên bố thành lập "Territoire Autonome Nung" tức Khu Tự Trị Nùng Hải Ninh thuộc Pháp, dưới sự bảo trợ của Toàn Quyền Émile Bollaert. Khu tự trị Hải Ninh là phần mỏm cực Đông của Việt Nam nhô ra Vịnh Bắc Bộ, rộng 4500 km2 gồm 9 huyện: Móng Cái, Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bình Liêu, Hoành Mô, Đình Lập, Ba Chẽ, Vạn Hoa. Một năm sau, ngày 17 -7-1949, quy chế tự trị này được Quốc trưởng Bảo Đại công nhận, sau khi đã nhận lời tuyên thệ trung thành với chính phủ Quốc gia Việt Nam của họ.

Dẫn theo hơn 30.000 đồng bào trong khu tự trị vào Nam giúp Ngô Đình Diệm, quan lộ và số phận của Vòng A Sáng đã không hanh thông may mắn như thuộc cấp. Các phó tướng của ông như Nguyễn Văn Vỹ, Phạm Quốc Đỗng, Linh Quang Viên... đều tiến thân rất nhanh trên đường binh nghiệp, sau này đều đeo lon tướng. Riêng ông, vì được lính Nùng, người Nùng di cư coi như lãnh tụ, tuyệt đối nghe lời, ông trở thành cái gai trong mắt chính Ngô Đình Diệm, người đã được ông hậu thuẫn góp phần tạo thế lực để trở thành Tổng thống khai sinh nền Đệ nhất Cộng hòa như tâm nguyện. Hơn nữa, nếu để phiên hiệu Sư đoàn Nùng tồn tại, quyết tâm tiêu diệt giáo phái, thống nhất quân đội Quốc gia của ông Diệm sẽ bị hòai nghi, chỉ trích. Vậy là Sư Đoàn Nùng được hợp nhất với các tiểu đoàn lính người dân tộc thiểu số di cư, đổi trở thành Sư đoàn 6 Dã chiến, vẫn do Vòng A Sáng làm tư lệnh. Nhưng chỉ chưa đầy 5 tháng sau, chức Tư lệnh sư đoàn đã được giao cho Phạm Văn Đỗng. Đại tá Vòng A Sáng đã bị buộc giải ngũ sớm hơn hạn tuổi 2 năm, dứt khoát không cho ông cơ hội lên tướng. Thay vào đó, ông Diệm đã điều ông về làm Phụ tá Tổng trưởng Bộ Dinh Điền dưới quyền Tổng trưởng Bùi Văn Lương. Bất mãn, cựu đại tá Vòng A Sáng chỉ đến Bộ Dinh Điền chào hỏi Tổng trưởng nhưng xin không nhận nhiệm vụ mới. Ông chỉ mê binh nghiệp. Lúc đó, con trai thứ hai của ông, Hoàng Gia Cầu đã đeo lon Trung tá, đã được đặt vào vị trí Tư lệnh phó của sư đoàn 6, đồn trú quanh khu vực sông Mao.

Khi tiền trạm nghiên cứu tìm đất định cư cho người dân Khu tự trị Hải Ninh di cư, Đại tá Hoàng A sáng đã nhắm đến khu vực lưu vực sông Mao, Bình Thuận. Dù đây là vùng đất khô cằn, song với tập quán sơn cước của ông và đồng bào ông, nó có nhiều lợi thế. Lưu vực sông Mao khá rộng, có đủ cả núi, rừng, biển lẫn đồng bằng để khai hoang trồng trọt. Dân cư ở đó hầu như còn thưa thớt, gồm chỉ một số ít người Kinh, người Chăm bản địa khu vực phía Đông và người Raglei ở phía Tây, giáp Di Linh. Trong khi đó, giao thông khá thuận lợi. Cả đường bộ (quốc lộ 1) lẫn đường sắt đều băng ngang qua khu vực. Khoảng cách với Sài Gòn - thủ đô miền Nam - không quá xa mà cũng chẳng quá gần, khỏang 270 km.

Đầu tháng 8-1954, Hoàng A Sáng được thăng đại tá trong quân đội liên hiệp Pháp, được bổ vào chức Tư lệnh vùng Duyên Hải (Commandant de la Zone Maritime), chỉ huy quân sự một khu vực trải dài từ Khu tự trị Hải Ninh đến hết tỉnh Quảng Yên (tức toàn bộ vùng Quảng Ninh ngày nay). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là cùng đội tiền thám đi tìm đất mới ở phương Nam để di chuyển toàn bộ quân lính Nùng và lính các dân tộc thiểu số vào. Với con mắt của dân sơn cước, khu vực Sông Mao của tình Bình Thuận là nơi được chọn. Thời Pháp thuộc, Bình Thuận cũng nổi tiếng là xứ tỵ địa, từng được nhiều sĩ phu, văn nhân, hào sĩ chọn lựa làm chốn dung thân. Người Nùng không tổ quốc của ông cũng không mong gì hơn thế.

Đề xuất của viên đại tá được chính phủ Ngô Đình Diệm chấp thuận. Tháng 9-1954 bắt đầu di dời. Đến cuối tháng 11-1954, từ khu tập kết ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, 30.000 người Nùng đã hoàn tất việc di chuyển ra Sông Mao, đoàn tụ với những chú lính Sư đoàn 6 là anh em, chồng, con...của họ, định cư xây dựng quê hương mới. Khoảng 1 tháng sau, quận tân lập Hải Ninh, tỉnh Bình Thuận ra đời, với Sông Mao là trung tâm, có 4 xã. Khu vực hành chính của quận đóng đối diện với nhà ga xe lửa Sông Mao, cách quốc lộ 1 khoảng 10 km. Đây có thể nói là quận tân lập đầu tiên trong chính sách cải cách điền địa, xây dựng các khu dinh điền, thành lập quận, tỉnh tân lập trên toàn miền Nam của chính quyền Ngô Đình Diệm. Bình Tuy, tỉnh tân lập đầu tiên của miền Nam cũng phải 3 năm sau đó (tháng 11-1957) mới chính thức khai sinh. Tỉnh này khi thành lập chỉ có 80.000 dân, trong khi quận Hải Ninh khi ra đời đã có 30.000 dân di cư, chưa kể một số dân bản địa có sẵn.

Nguyên thủy, con sông được đặt thành địa danh có tên là sông Ma Ó. Trong tiếng Raglei, Ma là rừng, Ó là nước, nguồn nước. Nó còn được gọi là sông Cà Giây. Từ thời Pháp thuộc đến sau này Chữ Ma-ó đánh máy đều không bỏ dấu, viết gần dễ được đọc thành Mao. Trong khi đó, quê cha đất tổ của Tư lệnh Hòang A Sáng lại là làng Tùng Mao trong Thập Vạn Đại Sơn, đọc theo âm Ngái (nghĩa là xa xôi, tản mác) hoặc thổ âm đại tộc Choang là Tsổng - mao, rất gần với Sông Mao trong tiếng Việt. Đã lấy được tên quận tân lập là Hải Ninh, như tên cũ của khu trị miền Đông Bắc thì viên tư lệnh cũng sắn trớn gọi luôn sông Ma Ó thành Sông Mao, biến nó thành một địa danh chính thức. Đó cũng là một cách viên Tư lệnh Sư đoàn dã chiến xuất thân sơn cước nhắc bản thân và đồng bào mình hoài niệm về cố thổ chôn rau cắt rốn.

Bỏ qua những thiên kiến chính trị ưa chia phe và chỉ trích lẫn nhau, phải thừa nhận rằng, Hoàng A Sáng là một viên sĩ quan "tuy xuất thân nhung hàng nhi thủ bất thích quyển" (tuy xuất thân quân đội nhưng tay không rời quyển sách - đoạn văn mô tả danh tướng Phạm Ngũ Lão). Không chỉ thạo binh nghiệp, ông còn giỏi cai trị hành chính. Trong đời, mình ông hai lần lập nên đơn vị hành chính riêng cho đồng bào dân tộc mình và giành quyền tự trị. Cuộc di cư của người Nùng Hải Ninh có thể coi là cuộc thiên di có tổ chức cuối cùng trong thời hiện đại của một nhóm sắc dân trên đất Việt.

Ông có phẩm chất của một thủ lĩnh bộ tộc, có máu cát cứ và có năng lực hoạt động cai trị, chăm lo cho dân khá phi phàm. Về sau, rời quân ngũ, ông vẫn tiếp tục là lãnh tụ tinh thần của người Nùng quận Hải Ninh, từng ứng cử và đắc cử Thượng nghị sĩ trong nền Đệ nhị Cộng hòa.

Thập niên 1960-1970, ở miền Nam có nhà văn Hoàng Ly (tên thật là Đỗ Hồng Nghi, sinh năm 1915) chuyên viết về những anh hùng thảo khấu người Việt, với bối cảnh hành động là khu Thập Vạn Đại Sơn, Trung Quốc hoặc khu trăm nghìn hòn đảo miền biên viễn khu vực Vịnh Bắc Bộ. Nổi tiếng hơn cả là các cuốn Một thời ngang dọc, Lửa hận rừng xanh, Nữ tướng biên thùy, Giặc cái, Giặc Tàu ô... Tất cả đều từng đăng feuilleton hàng năm trời trên tờ Giang Sơn và nhiều tờ báo khác, hình thành nên dòng tiểu thuyết "tân phái võ hiệp Việt Nam", theo cách đánh giá của nhà văn Hoài Anh. Tuy không nói rõ, song hầu như nguyên mẫu các nhân vật võ hiệp trượng nghĩa trong tác phẩm của nhà văn Hoàng Ly đều lấy từ nguyên mẫu đời thường là Đại tá Hoàng A Sáng và các túc hạ của ông khi còn tung hoành trên đất vùng phên dậu. Cả địa danh, bối cảnh cũng là vùng đất, con sông, ngọn núi, cửa bể...mà Hoàng tư lệnh từng ruổi rong suốt thời trai trẻ.

Đáng tiếc, con người lẫy lừng như thế lại bỏ mạng vì cướp biển trên tàu Trường Sơn khi đào thoát sang Đài Loan ngay sau biến cố 30-4-1975. Không một nấm mồ, xác thân ông chìm sâu đáy biển

A Sáng là tên thường gọi. Còn khai sinh, chính danh của ông là Hoàng Phúc Thịnh (黃福盛), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1902. Phả hệ họ Hoàng (Woòng, Vòng) ở Việt Nam chu chuyển năm đời theo vòng Phúc - Gia - Quốc - Tổ - Hữu. Vợ ông gọ Liêu, vốn người huyện Bình Liêu, Quảng Ninh. Ông có 11 người con gồm 8 nam, 3 nữ. Hậu duệ của ông huyện sinh sống chủ yếu tại Sông Mao, Bình Thuận và xã Bàu Hàm, Đồng Nai.

May mắn, tôi phát hiện ra một sinh viên của mình ở lớp TTBC K16, Trường Đại học KHXH&NV TP HCM là cháu gọi ông Hoàng A Sáng bằng cố nội, gọi Trung tá Lầu Cắm Bảo (Lưu Kim Bảo), một phó tướng của ông là cố ngoại. Tên em là Vòng Nhục Cú (Hoàng Như Cô - Cú Meo), đời chữ Hữu, sống ở Bàu Hàm, Đồng Nai. Phát hiện tình cờ đã đốt lên trong Người Của Giang Hồ một niềm say mê tìm hiểu đến kiệt cùng về con người lừng lẫy của một thời. Cô học trò sẽ là cầu nối giúp tôi tiếp cận tư liệu của dòng họ. Tôi muốn mời cô làm đồng sự, đồng tác giả cuốn sách ấp ủ, nhưng vì nhiều lý do, em chưa nhận lời.

Bài viết nhỏ này xem như một đề cương. Để biến nó thành
một cuốn sách tư liệu dày dặn, đầy đủ và chính xác, ngoài những gì đã tìm kiếm và tích lũy được, chắc chắn tác giả còn phải cần tiếp cận, khai thác, tìm hiểu thêm thông tin từ rất nhiều nguồn. Bất luận đang sống ở Việt Nam, Đài Loan, Ma Cao, Đảo Hải Nam hay trên đất Mỹ, tôi cũng mong rằng nếu có tình cờ đọc được bài viết này, hậu duệ của ông Hoàng A Sáng sẽ vui lòng cho tôi biết thông tin để tôi liên lạc, xin phép hỏi chuyện, tìm và đối chiếu tư liệu...

Họ là con cháu của các ông bà: Hoàng Gia Phúc (黃家福), thường gọi là A Sáng, Hoàng Gia Cầu (黃家球), tức Vòng A Nhì, cựu Đại Tá QLVNCH, định cư tại Mỹ; Hoàng Gia Thái (黃家泰); Hoàng Gia Thuyên (黃家銓) cựu Quận Trưởng Cảnh Sát Hải Ninh (Bình Thuận); Hoàng Gia Kỳ (黃家琪), cựu Đại Uý QLVNCH, Nghị Viên Hội Đồng Đô Thành Saigon, hiện định cư tại Mỹ; Hoàng Gia Thuỵ (黃家瑞) Hoàng Gia Hinh (黃家馨), cựu hiệu trưởng Trung Học Trung Dung, Phú Thọ Hoà, Saigon) hiện sống tại Đài Loan; Hoàng Gia Tú(黃家秀) hiện sống ở Hong Kong; Hoàng Gia Trân (黃家珍) ...
Người viết rất mong và xin cảm ơn trước.
1-4-2020.
NGUYỄN HỒNG LAM

No comments:

Post a Comment